TÔI LÀ AI, bài trích trong tác phẩm Mưa Sài Gòn Mưa Seattle của Trần Mộng
Tú, NXB Văn Mới, phát hành năm 2006 (Trang 139)
Bài này đã bị một người tên là Kim Thu lấy cắp
nguyên bài, thay địa danh Seattle thành San Jose, tên hồ Sammamish thành hồ San Jose. Đổi tựa bài thành “Tôi là Ai,
Người Việt hay Người Mỹ” Ký tên Kim Thư
Tùy Bút, gửi đăng trên tờ tuần báo Adelaide ở Úc, sau đó phát tán trên mạng,
từ tháng 10/2010.
Trần Nguyên Phát đổi tựa: Quê nhà, Quê người, Quê Mỹ, Quê Việt phát tán trên các trang mạng hải
ngoại đầu năm 2018
TÔI LÀ AI
“Tôi là ai mà yêu quá đời này”
(TCS)
Có phải nếu mình ở một nơi nào trên dưới ba mươi năm thì mình là người
thuộc địa phương đó, đúng không?
Đã biết bao nhiêu lần tôi đặt ra câu hỏi đó sau một ngày nhìn vào lịch
thấy con số ghi năm đã bước vào năm thứ ba mươi của một người tị nạn. Bây giờ
có ai mới quen gặp tôi, hỏi: Bà ở đâu đến vậy? Thì chắc tôi sẽ trả lời rất tự
nhiên là Tôi ở Seattle hay khi đang đi du lịch thì sẽ trả lời Tôi từ Mỹ đến.
Tôi sẽ không trả lời là tôi ở Việt Nam đến nữa, chỉ trừ khi người ta hỏi Bà là
người nước nào? Thì lúc đó tôi chắc chắn nói “ Tôi là người Việt Nam”. Để cho họ
không nhầm với người Trung Hoa, người Nhật, hay người Phi.
Đúng, tôi ở Mỹ trên, dưới ba mươi năm rồi, tôi là một người Mỹ. Bây giờ
thử xem lại con người Mỹ của tôi. Trước tiên mặt mũi, chân tay tôi chẳng có gì
thay đổi cả. Vẫn khuôn mặt cấu trúc ít góc cạnh của người Á Đông, cái mũi khiêm
tốn, tóc sợi to và đen, khi có tóc bạc thì nhìn thấy ngay, muốn giấu thì phải
nhuộm. Đối với người Á Đông thì tôi được gọi là người có nước da trắng, nhưng mầu
trắng này thực ra là mầu ngà, và đứng cạnh một ông Tây, bà Mỹ nào thì nó vẫn
cho cái căn cước da vàng rất rõ rệt. Khi tôi nói tiếng Anh thì cách phát âm có
vấn đề, nếu nói nhanh quá thì sẽ vấp phải lỗi nói tiếng Anh theo cách dịch tiếng
Việt trong đầu. Như thế bị chê là nói Tiếng Anh bể (broken English) Về cách phục
sức, nhà ở, xe cộ bên ngoài tôi có thể không kém một người Mỹ chính gốc. Nhưng
khi bước vào nhà tôi thì hoàn toàn khác: từ những bức tranh treo ở phòng khách,
bát đũa bầy ở bàn ăn, chai nước mắm, hũ dưa cải trong bếp và nhất là sách, báo
tiếng Việt ở khắp nơi trong nhà, thì chắc ai cũng sẽ nhận ra ngay đó là một gia
đình Việt Nam. Như thế thì tôi là người Seattle hay người Hà Nội, người Mỹ hay
người Việt? Tôi ở đất này đến ba mươi năm rồi cơ mà.
Người ở Lạng Sơn, Thanh Hóa ra Hà Nội ở trên dưới ba mươi năm thì tự nhận
mình là người Hà Nội; người ở Hải Phòng, người ở Hải Dương vào Sài Gòn lập nghiệp
từ năm 75, 76 tự nhận mình là người trong Nam.
Tôi ở Mỹ tìm về Việt Nam không ai chịu nhận tôi là người Việt nữa, dù
tôi có yêu quê hương đến quặn thắt cả ruột gan. Có khi gặp lại họ hàng thăm viếng,
hỏi han, nước mắt khôn cầm thế mà thỉnh thoảng họ vẫn nói rất tự nhiên: Chị đâu
có phải là người Việt nữa. Bây giờ Chị là người Mỹ rồi, hay: Chắc cái này không
hạp với chị hay cái kia chị không ăn được, cái nọ chị không biết đâu. Những lúc
đó tôi chẳng biết mình phải phản ứng thế nào cho đúng. Cứ cãi tôi vẫn Việt hay
nhận đúng rồi tôi là Mỹ? Không, cả hai cùng sai cả. Những khi cần quyên tiền
đóng góp vào việc công ích nào ở Việt Nam thì ai ai cũng nhắc lại cho tôi đến
ngàn lần tôi là một người Việt Nam chính gốc. Tôi phải có bổn phận và tình
thương với đất nước, đồng bào. Tình thương thì nhất định lúc nào tôi cũng đầy ắp
trong ngực rồi, tôi chẳng cần ai nhắc nữa, nhưng bổn phận thì cho tôi nghĩ lại.
Tôi đã đóng góp bổn phận của tôi cho đất nước đó rồi. Một mối tình chết tức tưởi
trong chiến tranh hơn ba mươi năm về trước - xương thịt của người tôi yêu nằm
trong lòng đất, rồi lại phải đào lên, đốt thành tro than, bị đuổi mộ như đuổi
nhà - đã trả bổn phận đó thay tôi rồi. Chừng đó chưa đủ hay sao? Bây giờ tôi phải
có bổn phận đóng thuế hàng năm ở đất nước tôi đang sống để phụ với chính phủ sửa
đường, xây trường học và nuôi di dân những người ở khắp nơi mới tới, như trước
kia đất nước này đã nuôi người Việt, vì giấy tờ cá nhân hiện tại xác định tôi
là người Mỹ. Tôi phải làm bổn phận công dân.
Có những ngày tôi lái xe bị kẹt ở xa lộ vào một buổi chiều mưa mùa thu
hay một buổi sáng mùa xuân vắng lặng, êm ả, đứng trong nhà nhìn ra mặt hồ, tôi
mới cảm nhận được nơi mình đang hiện diện không phải là quê mình, không phải nước
mình. Chẳng có một lí do gì cụ thể, chỉ là những giọt mưa đập vào kính xe, chỉ
là mặt nước hồ gờn gợn sóng. Mưa trên xa lộ Mỹ nhắc nhớ đến những cơn mưa tháng
Năm ở Thị Nghè, nhà mình hay ở Trần quý Cáp, nhà anh; hay ở trước rạp ciné Eden
đúng trú mưa với nhau. Nước ở hồ Sammamish trước nhà nhắc đến nước sông ở bến Bạch
Đằng mỗi lần qua phà sang bên kia Thủ Thiêm chơi với bạn, hay sóng nước ở bắc Mỹ
Thuận những lần qua phà đi thăm họ hàng ở tận Bạc Liêu. Những lúc đó tôi chợt bắt
gặp mình Việt Nam quá, vì những cái bóng Việt Nam thật mờ, thật xa lại chồng
lên hình ảnh rõ rệt ngay trước mặt mình. Và kỳ diệu làm sao những cái bóng đó
nó mạnh đến nỗi mình quên mất là mình đang ở Mỹ. Thì đúng tôi là người Việt
Nam.
Lại có những lần tôi ở Việt Nam, bị muỗi
đốt kín cả hai ống chân, bị đau bụng liên miên cả tuần lễ. Đi đâu cũng phải hỏi
đường, ai nhìn mình cũng biết mình từ đâu đến và đang đi lạc, tiền bạc tính
hoài vẫn sai. Nhiều khi đứng chênh vênh trên đường phố Sài Gòn, biết đất nước
này vẫn là quê hương mình, những người đi lại chung quanh là đồng bào mình,
nhưng sao không giống Việt Nam của mình ngày trước, hình như đã có điều gì rất lạ. Ngôn ngữ Việt thì thay
đổi rất nhiều, pha trộn nửa Hán nửa Ta, chắp đầu của chữ này với cuối chữ của
chữ kia, làm nên một chữ mới thật là “ấn tượng”, nói theo cách dùng chữ khá phổ
biến bây giờ ở Việt Nam. Cách phát âm của người Hà Nội bây giờ không giống cách
phát âm cũ của ông bà, cha mẹ tôi ngày trước, đã thế họ nói nhanh quá, tôi nghe
không kịp. Cái tiếng nói trầm bổng, thanh lịch, chậm rãi, rõ ràng từng chữ của
thời xa xưa bây giờ chỉ còn là cổ tích.
Ngửng mặt lên nhìn bầu trời, vẫn bầu trời xanh biếc của thời tuổi trẻ,
cúi xuống nhìn mặt đất, vẫn mặt đất thân quen, nhưng sao lòng hoang mang quá đỗi,
và thấy đã có một khoảng cách nghìn trùng vô hình giữa mình và quê hương đất Việt.
Chắc tôi là người Mỹ.
So sánh thời gian tôi sinh ra, sống ở Việt Nam và thời gian tôi bỏ Việt
Nam ra đi, sống ở Mỹ hai con số đó đã gần ngang nhau. Tôi được học từ nhỏ rằng
quê hương là nơi tổ tiên lập nghiệp, là nơi chôn nhau cắt rốn. Một bài hát phổ
thơ nổi tiếng trong nước, có câu: Quê
hương mỗi người có một, như là chỉ một mẹ thôi. Nhưng có người lại nói: Nơi
nào mình sống ở đó suốt một quãng đời dài, có những người thân chung quanh
mình, hưởng những ân huệ của phần đất cưu mang mình, thì nơi đó cũng được gọi
là quê hương mình. Như vậy thì tôi có một hay hai quê?
Sống ở Mỹ thì bạn bè gặp nhau thường nói: Cái này người Việt mình không
hạp, hoặc người Mỹ họ mới thích nghi được việc này, người Việt mình không quen.
Khi đi dự buổi tiệc cuối năm của một công ty lớn ở Mỹ, toàn là những người Mỹ
sang trọng thì thấy rõ ngay mình là người Việt đi lạc, dù mình có sang trọng, lịch
sự như họ. Hóa ra ở Mỹ hay về Việt Nam mình đều lạc chỗ cả.
Tôi nhớ mấy năm trước có lần trò chuyện với Mẹ của một người bạn, lúc đó
cụ ngoài 80 hãy còn minh mẫn, cụ theo đạo Phật. Trưởng nam của cụ và con dâu cụ
tự nhiên rủ nhau theo đạo Công Giáo. Gặp tôi cụ hỏi: Không biết anh Bình nhà
tôi khi chết thì đi đâu? Phật giận anh ấy, vì anh ấy bỏ đi, Chúa chắc gì cho
anh ấy vào, vì anh ấy mới quá! Năm nay cụ ngoài 90 tuổi rồi và may quá, cụ bị
Alzheimer, cụ không còn minh mẫn để lo con mình không có chỗ dung thân cho phần
hồn.
Bây giờ thỉnh thoảng nghĩ lại những lời cụ nói, thấy mình ngay ở đời sống
này cũng đã là một vạt nắng phất phơ bay. Quê nhà, quê người, quê Mỹ, quê Việt.
Chao ôi! Cái thân cỏ bồng.
Nhưng lạ lắm, tôi biết chắc mình là người Việt nhất là khi tôi nằm mơ.
Trong giấc ngủ tôi thường gặp cha mẹ, gặp ngay trong những ngôi nhà cũ ở Việt
Nam, gặp bạn bè cũng gặp trên đường phố Việt Nam từ ngày rất xa xưa, và bao giờ
trong mơ cũng đối thoại bằng tiếng Việt. Tỉnh dậy đôi khi vẫn ứa nước mắt, dù
là một giấc mơ vui. Thấy nhớ quê nhà quá đỗi!
Tôi nhớ lại trong những truyện ngắn, những bài thơ Đường tôi đọc thời rất
xa xưa nói về những người bỏ làng đi xa lâu năm trở về không ai nhận ra nữa vì
đã già. Hồi đó sao mà mình thương những người già đó thế! Bây giờ nghĩ lại thì
người trong sách đó còn may mắn hơn mình, họ đâu có đi đến tận một nước khác
như mình. Họ chỉ bỏ làng, chứ không bỏ nước. Thế mà khi về còn ngơ ngác, bùi
ngùi, tủi thân vì lạc chỗ ngay trong làng mình.
So sánh tôi với người bỏ làng ra đi trong những trang sách đó thì hoàn cảnh
của tôi đáng buồn hơn nhiều. Không những đã bỏ làng, bỏ nước đi, còn nhận quốc
tịch của một nước khác.
Khi về đổi họ thay tên
Núi
chùng bóng tủi sông ghen cạn dòng.
Tôi là ai?
tmt
4/2006