Anh
tặng em mùi máu
Trên áo
trận sa trường
Máu anh
và máu địch
Xin em
cùng xót thương
Trần Mộng Tú
[Quà Tặng Trong Chiến Tranh, 1969]
*
Hình 1: Thẻ “nhà báo” của Trần Mộng Tú khi
làm cho hãng thông tấn AP (Associated Press] Sài Gòn; thẻ này do MACV (US
Military Assistance Command, Vietnam)
cấp, chỉ có giá trị mỗi 3 tháng. [tư liệu TMT]
PHỤ NỮ GIỮA CHIẾN TRANH VIỆT NAM: THỜI ĐIỂM 1969
Tầm nhìn Chiến tranh,
Giấc mơ Hòa bình [Visions of War, Dreams of Peace] [1] là nhan đề một
tuyển tập thơ của các nhà thơ nữ; nếu là Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, họ đã
là những nữ quân nhân như y tá, bác sĩ đã từng chăm sóc các thương bệnh binh; nếu
ở những ngành nghề khác, họ đảm trách các dịch vụ không tác chiến như chuyên
viên truyền tin, tiếp vận, kiểm soát không lưu, nhân viên Hồng Thập Tự... Nếu
là người Việt, họ là những phụ nữ thuộc hai miền Nam hay Bắc, với những trải
nghiệm khác nhau, qua những năm tháng chiến tranh. Và như từ bao giờ, cho dù ở
đâu, phụ nữ và trẻ em vẫn là thành phần dễ bị tổn thương nhất trong chiến
tranh.
Trong tập thơ này,
có 34 nhà thơ nữ Hoa Kỳ, và sáu nhà thơ nữ Việt Nam: Xuân Quỳnh (My
Son’s Childhood), Hương Tràm (The Vietnamese Mother), Hà Phương
(To An Phu, From This Distance I Talk To You), Trần Mộng Tú (The Gift In
Wartime, Dream of Peace), Minh Đức Hoài Trinh (Poem Without Name), Nguyễn
Ngọc Xuân (My Letter to the Wall).
***
Hình 2: trái, hình
bìa cuốn sách Tầm nhìn Chiến tranh, Giấc mơ Hòa bình [Visions of War,
Dreams of Peace] [1] Nxb Warner Books 1991,
phải, hình bìa cuốn Miểng Đạn Trong Tim [Shrapnel in The Heart] [2] của Laura Palmer”, Nxb Vintage
Books 1987. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Lời giới thiệu “Tầm
nhìn Chiến tranh, Giấc mơ Hòa bình”: Với những nữ quân
nhân Mỹ, họ là những anh hùng không được nhắc tới trong Chiến tranh Việt Nam.
Con số hơn 250 ngàn người đã tự nguyện cống hiến. Nếu là y tá, họ chăm sóc
thương binh và những người đang hấp hối. Họ là những người chị, những cô gái,
những bà mẹ, những người vợ hay mới chỉ là người yêu. Không ai bắt họ phải nhập
ngũ. Nhưng họ tự nguyện cống hiến, chấp nhận rủi ro của chiến tranh để chăm sóc
những chiến binh. Chưa hết, cho dù thời gian đã qua đi, nhiều người trong số ấy
nay chỉ mới bắt đầu hàn gắn những vết thương tâm can của họ. Các bài thơ đã
được viết trong và sau chiến tranh, vẽ nên chân dung của những người phụ nữ
bình thường khi phải đối đầu với thảm họa; với can trường và lo âu, của hy sinh
và mất mát, của lòng trắc ẩn và tiếc nuối. Họ nói về sự sống còn, với hồi tưởng
về những vết thương lòng / wounded hearts. Đây là những bài thơ với cảm xúc sâu
xa mà bạn khó thể nào quên. Bạn sẽ luôn nhớ mãi những người phụ nữ ấy. [hết trích dẫn]
[1]
Từ trong Tuyển tập
này, người viết [Ngô Thế Vinh] chọn ra ba bài thơ tiêu biểu, của ba phụ nữ: vùng
miền tuy khác nhau nhưng họ có một mẫu số chung, là cùng nói về nỗi đau trong
chiến tranh, thời điểm năm 1969, trên ba địa danh của Việt Nam:
(1) Dusty, theo phần tiểu sử
là một cô y tá Mỹ chăm sóc một thương binh trẻ mới chết đêm qua nơi vùng Tam Biên
(Tri-Border Area) trên Tây nguyên.
(2) Xuân Quỳnh, một văn công
trong đoàn múa, một nhà thơ và đứa con nhỏ sống dưới đường hầm trong vùng “tuyến đầu” Vĩnh Linh
phía bắc tỉnh Quảng Trị.
(3) Trần Mộng Tú, nhân viên hãng
thông tấn AP, sống giữa Sài Gòn trong không khí chiến tranh, mới sau đám cưới,
bỗng chốc trở thành góa phụ ở tuổi mới ngoài 20.
1969 DUSTY CÔ Y TÁ MỸ
GIỮA CUỘC CHIẾN TRÊN CAO NGUYÊN
Bài thơ có nhan
đề: “Hello, David”, được ghi là của một cô y tá Mỹ, có tên Dusty phục vụ
trong khu cấp cứu nơi một bệnh xá dã chiến vùng Tam Biên (Tri-Border Area) trên
Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Bài thơ ấy – trong nhiều năm, được đánh giá là hay
và cảm động: với nhân vật xưng “tôi”, là một cô y tá – viết cho một chiến binh
trẻ tên David bị thương nặng được cô chăm sóc và mới chết đêm qua.
HELLO, DAVID
CHÀO DAVID
Chào David – tên
em là Dusty
Hello , David – My
name is Dusty
Em là y tá của anh
đêm qua
I’m your night
nurse…
Em sẽ bên anh
I will stay with
you
Em đo sinh hiệu
của anh
mỗi 15 phút
I will check your
vitals
every 15 minutes
Em sẽ phải ghi
xuống
I will document
inevitability
Em sẽ treo thêm
bịch máu nữa
I will hang more
blood
Và cho anh thuốc
giảm đau
and give you
something for your pain
Em sẽ bên anh
và vuốt mặt anh
I will stay with
you
and I will touch
your face
Vâng, chắc chắn
rồi,
Yes, of course
Em sẽ viết thư cho
mẹ anh
và nói với bà rằng
anh can đảm
I will write your
mother
and tell her you were
brave
Em sẽ viết thư cho
mẹ anh
và nói anh thương
mẹ biết dường nào
I will write your
mother
and tell her how
much you love her
Em sẽ viết thư cho
mẹ anh
và sẽ nói với bà
hãy ôm hôn
đứa em gái tuổi
thơ ngỗ nghịch của anh
I will write your
mother
and tell her to
give your bratty kid sister
a big kiss and hug
Điều gì em sẽ
không nói với bà
What I will not
tell her
rằng anh đã hôn mê
is that you were
wasted
Em sẽ bên anh
và nắm lấy tay anh
I will stay with
you
and I will hold
your hand
Em sẽ bên anh
và thấy sự sống
của anh
thoát khỏi những
ngón tay em,
đi vào hồn em
I will stay with
you
and watch your
life
flow through my
fingers
into my soul
Em sẽ bên anh
cho tới khi anh
còn bên em
I will stay with
you
until you stay
with me
Vĩnh biệt, David –
tên em là Dusty
Goodbye, David –
my name is Dusty
Em là người cuối
cùng
anh thấy
I am the last
person
you will see
Em là người cuối
cùng
anh nắm tay
I am the last
person
you will touch
Em là người cuối
cùng yêu anh
I am the last person
who will love you.
Vĩnh biệt, David –
em tên là Dusty,
So long, David –
My name is Dusty,
David, ai sẽ cho
em thuốc giảm nỗi đau em?
David, who will
give me something for my pain?
Dusty, y tá Việt
Nam, 1969
(Dusty, Vietnam
nurse,1969)
[bản dịch tiếng
Việt của Ngô Thế Vinh]
Dusty, sau này còn được
biết với một bút danh khác là Dana Shuster, cô rất nổi tiếng, được
vinh danh như một nhà thơ nữ viết về chiến tranh, bài thơ “Hello, David”
không những hay và cảm động, đã được trích dẫn nơi bìa sách. Với hai bút hiệu khác nhau, chính cô là tác giả của 13 bài thơ
hay trong tuyển tập Visions of War, Dreams of Peace, (với tên Dusty: 3
bài, Dana Shuster: 10 bài).[1]
Ký giả Laura
Palmer, từng sống và làm việc tại Sài Gòn, Paris, Washington, D.C., từ những
năm đầu thập niên 1980s, Palmer để tâm theo dõi các cá nhân đã để lại những kỷ
vật nơi Bức Tường Thương Tiếc (Vietnam Veterans Memorial ở Washington, D.C.) Cuốn sách của Palmer
có tên là “Miểng đạn trong Tim” (Shrapnel in the Heart) [2]
được Vintage Books xuất bản năm 1987,
trong đó cô đã ghi lại những cuộc phỏng vấn.
[Có một chi tiết
riêng tư rất thú vị của TMT. Khi Laura Palmer sang Việt Nam làm cho AP đã từng
là bạn thân của Trần Mộng Tú – sau khi Cung mất. Sang Mỹ, TMT và Laura vẫn liên
lạc với nhau. Nhưng rồi bẵng đi một thời gian dài hơn 30 năm, họ mất liên lạc. Và
mới đây hai người tìm lại được nhau. TMT đã ngạc nhiên vô cùng khi biết cô ký
giả Laura Palmer nay trở thành Mục sư, và hiện đang sống ở Philadelphia].
Có một nhân vật trong
sách mà ban đầu, Laura Palmer chỉ biết tên là Dusty, tác giả bài thơ “Hello,
David”. Vào dịp ra mắt sách cuốn Shrapnel in the Heart 1987, chính Laura
Palmer đã đọc bài thơ “Hello, David” của Dusty trong một
chương trình buổi sáng trên đài phát thanh quốc gia [NPR / National Public
Radio]; bài thơ gây xúc động cho nhiều cựu chiến binh và gia đình họ. Bài thơ này cũng
được chính Phó Tổng thống Mỹ Al Gore đọc sáu năm sau (1993) trong buổi lễ khánh
thành Vietnam Women's Memorial [Tượng đài Tưởng niệm các Phụ nữ đã phục
vụ trong chiến tranh Việt Nam].
Hình 3: hình chụp một
phần của tượng đài Vietnam Women’s Memorial tại Washington, D.C. do điêu khắc
gia Glenna Goodacre (1939 – 2020) và được Phó Tổng thống
Al Gore cắt băng khánh thành nhân ngày Cựu Chiến Binh 11/11/1993. [source: Montana
Public Radio, © Public Domain]
Trong gần 20 năm, ký
giả Laura Palmer chỉ được biết Dusty là tác giả bài thơ nổi tiếng “Hello,
David”, và được nghe các câu chuyện về hai nhiệm kỳ Dusty phục vụ ở Việt Nam
khoảng giữa 1966 – 1968, như trong Tết Mậu Thân 1968, Dusty kể rằng cô đã phải
đứng trong phòng mổ suốt 72 giờ khiến hai bàn chân sưng phù tới mức không thể
cởi giày ra được trong hai ngày!
Nhưng rồi, vào những
năm sau này, cũng chính ký giả Laura Palmer khi tiếp xúc với các nhóm cựu chiến
binh khác, họ cho biết là chưa từng được gặp hay làm việc với Dusty trong thời
gian chiến tranh Việt Nam. Laura Palmer bị áp lực phải trở lại tìm gặp Dusty và
yêu cầu cô ta, nếu có thể cung cấp các chứng từ hay hình ảnh về thời gian cô
phục vụ ở Việt Nam. Câu trả lời của Dusty là không thể. [4]
Phát hiện của ký
giả Laura Palmer về phần tiểu sử không thật của Dusty đã làm nhiều cựu chiến
binh và gia đình họ ngỡ ngàng và cả thất vọng. Họ cảm thấy như bị phản bội
khi biết rằng Dusty chưa hề là một nữ y tá trong quân đội Mỹ, và chưa hề có mặt
ở Việt Nam chăm sóc thương binh trong chiến tranh. Laura Palmer đã báo ngay
cho Vietnam Women's Memorial Foundation, và lúc đó Debbie Elliot đang phụ trách
tổ chức này, đã ra một thông báo:
“Và bây giờ cần thêm một “ghi chú cuối trang” [footnote] trong lịch
sử Chiến tranh Việt Nam. Các bạn có thể đã đọc những bài thơ của một phụ nữ tên
Dana Shuster nói về kinh nghiệm của cô như một y tá chiến trận / combat nurse ở
Việt Nam. Cô ta còn được biết tới với một bút danh khác là Dusty, về một bài
thơ nổi tiếng viết về một cô y tá chăm sóc một thương binh đang hấp hối. Nhưng
gần đây người ta mới phát hiện ra rằng Dana Shuster chưa từng trong quân ngũ và
cũng chưa bao giờ là một y tá”. [4]
Một thân nhân của cựu chiến binh, Karen S. Zacharisa
đã phát biểu: “Một
người nào đó nói rằng, mình có mặt ở đó cầm tay một người đang hấp hối tên là
David là điều không thể tưởng tượng được. Zacharisa nói rằng cô rất
đau buồn nhưng bây giờ thì cứ chờ xem điều gì là động lực để Shuster làm như
vậy, nhưng cô cũng xác nhận rằng ngay cả bây giờ đọc bài thơ ấy vẫn thực sự gây
xúc động. Ký giả Laura Palmer cho biết có nhiều cựu chiến binh
cũng nghĩ như vậy”. [4]
Dẫu sao, Dana “Dusty” Shuster cũng đã tạo được mối quan tâm tới những y tá quân
đội, và thi ca của Dusty đã giúp mọi người nhận biết được sự hy sinh và cống
hiến của những phụ nữ ấy trong chiến tranh Việt Nam. [1]
Ý kiến người viết [Ngô Thế Vinh]: Trong sáng tạo
văn học, không nhất thiết bản thân tác giả phải là người thật việc thật giống
như nhân vật trong tác phẩm. Với tài năng và sức mạnh của trí tưởng tượng
sáng tạo, nhà thơ nhà văn vẫn có thể sáng tác ra những bài thơ, áng văn giá
trị, “thật hơn cả sự thật” làm xúc động sâu xa lòng người. “Hello,
David” vẫn là một bài thơ hay và cảm động, nhưng điều mà Dana “Dusty”
Shuster đã làm thất vọng nhiều ngưởi – trong đó có các cựu chiến binh và gia
đình của họ, không phải vì cô đạo văn đạo thơ của ai, nhưng chính là phần cô đã
man khai về lý lịch của mình, khi họ biết cô ấy chưa hề là một y tá, và chưa hề
có mặt ở Việt Nam trong thời gian chiến tranh. Nếu Dana “Dusty” Shuster hiểu
được rằng, vẫn có thể có “những sự thật trong hư cấu văn học”, thì cô đâu cần
phải vẽ ra một lý lịch khác như vậy. Chính điều đó đã làm mất đi sự tin cậy của
độc giả nơi cô!
1969 XUÂN QUỲNH VÀ CON SƠ SINH
NƠI TUYẾN ĐẦU VĨNH LINH, QUẢNG TRỊ
Xuân Quỳnh, sinh năm 1942 tại Hà Đông [cùng nơi sinh với Trần Mộng Tú]. Xuân
Quỳnh từ năm 13 tuổi đã được tuyển vào Đoàn
ca múa nhạc Trung ương. Từ một cô văn công, Xuân Quỳnh đến với thi ca. Năm 20 tuổi (1962), Xuân Quỳnh được cử đi học lớp sáng tác cho
các nhà văn trẻ. Từ 1964, giã từ Đoàn ca múa, bắt đầu làm biên tập viên cho tuần báo Văn Nghệ, Xuân Quỳnh nổi tiếng
ngay với tập thơ đầu tay có tên “Tơ tằm – Chồi biếc”. Năm 1968, là tập thơ
thứ hai “Hoa dọc chiến hào” phản ánh cảm xúc của nhà thơ trước cảnh bom
đạn của đất nước.
Xuân Quỳnh có những
tác phẩm thơ và truyện viết về trẻ thơ như: Lời
ru trên mặt đất (1978), Bầu trời trong quả trứng (1982), và tập truyện Mùa xuân
trên cánh đồng (1981), Bến tàu trong thành phố (1984).
Bài “Tuổi
Thơ của con” được ghi là sáng tác năm 1969 trong thời gian Xuân Quỳnh đi
thực tế ở vùng tuyến đầu Vĩnh Linh, phía bắc tỉnh Quảng Trị. (Bài thơ này sau
đó được in trong cuốn Bầu trời trong quả trứng. Nxb
Kim Đồng, 1982). Vĩnh Linh sát với vùng phi quân sự DMZ phía bắc vĩ tuyến 17. Vào thời điểm
1969, Vĩnh Linh từng được báo chí Mỹ mệnh danh là “Vùng Trắng – White Zone”,
hay còn được gọi là “vùng oanh kích tự do”.
TUỔI THƠ CỦA CON
MY SON’S CHILDHOOD
Tuổi thơ con có những gì
What do you have for your childhood
Có con cười với mắt tre trong hầm
That you still smile in the bomb
shelter
Có làn gió sớm vào thăm
There is the morning wind which comes
to visit you
Có ông trăng rằm sơ tán cùng con
There is the full moon which follows
you
Sông dài, biển rộng, ao tròn
The long river, the immense sea, a
round pond
Khói bom đạn giặc, sao hôm cuối trời
The enemies’ bomb smoke, the evening
star
Ba tháng lẫy, bẩy tháng ngồi
At three months you turn your head,
at seven you crawl
Con chơi với đất con chơi với hầm
You toy with the earth, you play with
a bomb shelter
Mong ngày, mong tháng, mong năm
I long for peace everyday, every
month for a year
Một năm con vịn vách hầm con đi
For a year, you toddle around the
shelter
Trời xanh các ngả ngoài kia
The sky is blue, but way over there
Cỏ xanh quanh những hàng bia trên mồ
The grass is green far away on the ancient
tombs
Quả tim như cái đồng hồ
My heart is a pendulum
Nằm trong lồng ngực giục giờ hành quân
Pounding my chest, keeping time for
the march
Dế con cũng biết đào hầm
The small cricket knows to dig a
shelter
Con cua chả ngủ, canh phòng đạn bom
The crab doesn’t sleep: it, too,
fears the bombs
Trong trăng chú cuội tắt đèn
In the moonlight, even the hare hides
Để cho mắt giặc mây đen kéo về
The black clouds hinder the enemy’s sight
Cái hoa cái lá biết đi
Flowers and trees join the march
Theo người qua suối, qua khe, qua làng
Concealing troops crossing streams,
valleys, villages
Chiến hào mặt đất dọc ngang
My son, trenches crisscross everywhere
Sẽ dài như những con đường con qua
They’re as long as the roads you’ll
someday take
Hầm sâu giờ quý hơn nhà
Our deep shelter is more precious
than a house
Súng là tình nghĩa đạn là lương tâm
The gun is close by, the bullets
ready
Mẹ nuôi ngọn lửa trong hầm
If I must shoot.
Để khi khôn lớn con cầm lên tay
When you grow up, you’ll hold life in
your own hands
Những điều mẹ nghĩ hôm nay
Whatever I think at present
Ghi cho con nhớ những ngày còn thơ
I note down to remind you of your
childhood days
Ngày mai tròn vẹn ước mơ
In the future, when our dreams come
true,
Yêu thương thêm chuyện ngày xưa nước mình
You’ll love our history all the more.
Xuân Quỳnh
Vĩnh Linh, 24-11-1969
[bản dịch tiếng Anh của Phan Thanh Hao và
Lady Borton]
Xuân Quỳnh được sinh
ra và lớn lên trong nền giáo dục “thép đã tôi thế đấy” ở Miền Bắc, với lằn
ranh “ta và địch” phải rất rạch ròi. Và trong nền “văn hóa chiến tranh”
đó, với bài quốc ca “thề phanh thây uống máu quân thù”, đứa con thơ cũng
đã được mẹ dạy “súng là tình nghĩa, đạn là lương tâm”, [bản dịch tiếng
Anh với câu: “The gun is close by, the bullets ready”, đã không lột tả được ý nghĩa đích thực tính “chiến đấu máu lửa” của câu thơ
này].
Xuân Quỳnh không chết trong chiến tranh, nhưng cùng chồng là nhà viết kịch
nổi tiếng Lưu Quang Vũ và con trai đã chết trong một tai nạn giao thông nhiều
nghi vấn ở Hải Dương năm 1988. Năm 2016, 28 năm sau Xuân Quỳnh được truy tặng giải
thưởng văn học danh giá nhất của Hà Nội: giải thưởng Hồ Chí Minh. Lưu Quang Vũ cũng
đã được truy tặng giải này từ năm 2000.
1969 TRẦN MỘNG TÚ NHẬN TIN CHỒNG TỬ TRẬN
GIỮA MỘT SÀI GÒN TRONG KHÍ HẬU CHIẾN TRANH
Trần Mộng Tú sinh năm
1943 tại Hà Đông, kém Xuân Quỳnh một tuổi. TMT đã có một thời con gái hoa mộng
với tình yêu đầu đời như mọi thiếu nữ khác. Sau Lễ Phục Sinh một tuần, ngày
12/4/1969, là một đám cưới, Cung tử trận ngày 30/7/1969 – chỉ ba tháng sau – là đám tang chồng. TMT trở thành góa phụ ở
tuổi mới ngoài 20. Bài thơ Quà Tặng Trong Chiến Tranh được TMT sáng tác trong
nước vào thời điểm rất đau thương này, từ những xúc động trước cái chết của người yêu đầu đời và là chồng
mới cưới của cô.
Hình 4: Trần Mộng Tú và Thái Hoàng Cung
trong ngày đám cưới (ngày 12 tháng 4 năm 1969). Kiên Giang – Rạch Giá là địa danh định mệnh, nơi chuẩn úy - nhà giáo
Thái Hoàng Cung, chồng mới cưới của Trần Mộng Tú tử trận ba tháng sau trong một
cuộc hành quân (tháng 7 năm 1969), thời điểm TMT làm bài thơ này. [tư liệu TMT]
Năm 1990, lần đầu tiên hai bài thơ viết về chiến tranh của Trần Mộng Tú [The Gift in
Wartime / Quà Tặng trong Chiến Tranh và Dream of Peace
/ Giấc
Mơ Hòa Bình] được chọn đăng trong tuyển tập thơ: “Visions of War, Dreams of Peace” [1] (Tầm nhìn Chiến tranh, Giấc mơ
Hòa bình). Đó là cũng là lần đầu tiên thơ Trần Mộng Tú xuất hiện trên văn đàn thế giới. Quà Tặng trong Chiến Tranh là bài thơ được chọn cho bài viết này.
QUÀ
TẶNG TRONG CHIẾN TRANH
THE
GIFT IN WARTIME
Em tặng anh hoa hồng
I offer you
roses
Chôn trong lòng huyệt mới
Buried in your
new grave
Em tặng anh áo cưới
I offer you my
wedding gown
Phủ trên nấm mồ xanh
To cover your
tomb still green with grass
Anh tặng em bội tinh
You give me
medals
Kèm với ngôi sao bạc
Together with
silver stars
Chiếc hoa mai màu vàng
And the yellow
pips on your badge
Chưa đeo còn sáng bóng
Unused and still
shining
Em tặng anh tuổi ngọc
I offer you my
youth
Của những ngày yêu nhau
The days we
still in love
Đã chết ngay từ lúc
My youth died
away
Em nhận được tin sầu
When they told
me the bad news
Anh tặng em mùi máu
You give me the
smell of blood
Trên áo trận sa trường
From your war
dress
Máu anh và máu địch
Your blood and
your enemy’s
Xin em cùng xót thương
So that I may be
moved
Em tặng anh mây vương
I offer you
clouds
Mắt em ngày tháng hạ
That linger on
my eyes on summer days
Em tặng anh đông giá
I offer you cold
winters
Giữa tuổi xuân cuộc đời
Amid my
springtime of life
Anh tặng môi không cười
You give me your
lips with no smile
Anh tặng tay không nắm
You give me your
ams without tenderness
Anh tặng mắt không nhìn
You give me your
eyes with no sight
Một hình hài bất động
And your
motionless body
Anh muôn vàn tạ lỗi
Seriously, I
apologize to you
Xin hẹn em kiếp sau
I promise to meet you in our next life
Mảnh đạn này em giữ
I will hold this shrapnel as a
token
Làm di vật tìm
nhau.
By which we will recognize each other.
Sài Gòn Tháng 7/ 1969
Trần Mộng Tú
[bản dịch tiếng Anh của Vann Phan]
Bài thơ tiếng Việt của TMT nguyên là một cuộc đối thoại
giữa hai người, “thi sĩ và tử sĩ”, nhưng qua bản dịch cùa Vann Phan, có chỗ đã
biến thành một độc thoại – với ngôi thứ nhất!
Điều khá ngạc nhiên là trong bài thơ
“Quà Tặng Trong Chiến Tranh”, người ta không nghe thấy tiếng khóc gào
thét của nỗi đau mất mát từ người góa phụ trẻ Trần Mộng Tú, khi người yêu đầu
đời, người chồng mới cưới của cô bị tử trận. Khi ấy và cả những năm về sau này,
người ta cũng không thể tìm thấy lửa hận thù “ta và địch” trong thơ TMT, mà chỉ
có nỗi thổn thức xót thương chung cho tang tóc của cả đôi bên trong chiến tranh:
Anh tặng em mùi máu
Trên áo trận sa trường
Máu anh và máu địch
Xin em cùng xót thương
Phạm Xuân Đài trong bài điểm sách
Thơ tuyển 1969-2009 của TMT, trên Diễn Đàn Thế Kỷ (12/8/2010) đã viết: “Bản
lãnh của TMT là nuốt đắng cay vào trong để kết tinh thành những giọt nước mắt
như ngọc rơi xuống trang thơ.”
Không, TMT có khóc chứ, chỉ có điều
cô không khóc ngay khi đi đón và chạm tay vào cỗ quan tài đã bốc mùi, nhưng là
những năm về sau này, của những đêm dài không ngủ với những giọt nước mắt rỉ rả
và rất âm thầm:
“Tôi trôi mãi rồi
cũng phải giạt vào một chỗ. Bảy năm sau [1976] tôi lấy chồng, sanh con, tôi sống bình thường như tất cả
mọi người đàn bà khác trên một đất nước không có chiến tranh. Tôi cũng vui,
cũng buồn với những thăng trầm của đời sống. Ở đời sống hàng ngày, tôi quên dần
cái bất hạnh của tôi mấy mươi năm về trước. Nhưng tôi nhớ rất rõ ràng là cái
bất hạnh đó nó có hiện diện trong kiếp người của mình. Thỉnh thoảng Cung
vẫn về trong giấc mơ, dù suốt ngày hôm trước tôi không hề nghĩ đến. Cung về như
còn sống hay về như đã chết thì khi tỉnh dậy, nước mắt tôi vẫn lặng lẽ trào ra
trên gối. Tôi cố gắng không làm dao động người nằm bên cạnh đang ngon giấc.
Buổi sáng, thức dậy, tôi thay áo gối, rồi lại thản nhiên bước vào đời sống
trước mặt: Giặt giũ cho chồng, cơm bánh cho con”. [5]
Rồi cũng có một trận khóc rất thảm
thiết – nhưng phải mãi tới 23 năm sau, khi TMT lần đầu tiên về Việt Nam, tới
thăm Nhà
thờ Tân Định, nơi còn giữ hũ
tro cốt của người chồng năm nào:
“Tôi đi len lỏi giữa
những dãy kệ, đọc từng cái tên, đi đến vần “T” là họ của Cung. Tôi nhìn thấy
một cái hộc nhỏ, không có hình chỉ có ghi họ, tên, ngày sinh, ngày mất. Tôi đứng
lặng người, run rẩy chạm những ngón tay mình lên mặt chữ. Cái cảm giác chạm tay
vào đầu áo quan của năm 1969 bỗng hiện ra dưới những ngón tay tôi. Một tiếng
nấc đưa lên thanh quản, vỡ òa ra, tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Nước mắt
của bao nhiêu năm tụ lại một ngày, nước mắt của những ngày đi đón xác ở Kiên
Giang khô lại bây giờ nứt ra như một mạch ngầm của suối bật lên trên mặt đất
nứt nẻ. Tôi khuỵu chân ngồi xuống giữa lối đi của hai hàng kệ, khóc như chưa
bao giờ được khóc. Chung
quanh tôi vắng lặng. Tôi trầm mình vào nước mắt, vào bất hạnh, vào nỗi cô độc
của mình. Cái hộc nhỏ đựng tro than bên trên đầu tôi vẫn thản nhiên, im lìm
nhìn như trước khi tôi đến”. [5]
Với ba bài thơ
trích dẫn, từ ba chiến tuyến, đã như một Dẫn Nhập khá dài cho một bài viết về
nhà thơ Trần Mộng Tú.
TRẦN MỘNG TÚ
Sinh
quán Hà Đông, Bắc Việt. Lớn lên ở Hà Nội, rồi Hải Phòng, năm 1954 di cư vào Nam. Từ 1968 tới 1975 làm nhân viên hãng thông tấn The
Associated Press Sài Gòn. Di tản sang
Mỹ tháng Tư năm 1975. Ở hải ngoại, Trần Mộng Tú cộng tác với các tạp chí văn học và trang mạng ở Mỹ và các nước khác. Trần Mộng Tú hiện sống với gia đình ở một vùng ngoại ô yên tĩnh bên ngoài Seattle, tiểu bang Washington, Tây Bắc Hoa Kỳ. Bước qua tuổi “cổ lai hy”, TMT vẫn làm thơ, viết văn, và mỗi cuối tuần cùng
chồng tới nhà thờ làm công tác thiện nguyện.
TMT VỚI MỘT
TIỂU SỬ THƠ
Người Đàn Bà Thi Sĩ Việt Nam:
…
Tôi người đàn bà thi sĩ Việt Nam
Bỏ lại trên quê hương
Một mối tình
Một mối tình được gắn huy chương
Huy chương anh dũng bội tinh…
…
Tôi người đàn bà thi sĩ Việt Nam
Đang sống trên đất Mỹ
Chồng tôi người bản xứ
Chúng tôi có ba con chưa đến tuổi
thành niên
Đời sống êm đềm
Trong một thành phố nhỏ…
Tmt
TÁC PHẨM TMT ĐÃ XUẤT BẢN
Hình 5: hình bìa một số tác phẩm
tiếng Việt của Trần Mộng Tú đã xuất bản, từ trái: Vườn Măng Cụt (2009), Thơ
Tuyển Bốn Mươi Năm (1969-2009), Để Em Làm Gió (1996), Mưa Sài Gòn Mưa Seattle
(2006), Câu Chuyện của Lá Phong (1994), Ngọn Nến Muộn Màng (2005), Thơ Trần Mộng
Tú (1990), Cô Rơm và Những Truyện Ngắn (1999), Lịch Trần Mộng Tú Xuân Ất Mùi
2015. [nguồn: Blog’s TMT]
Tiếng Việt:
(1)Thơ Trần Mộng Tú
(Tập Thơ-1990) Nxb Người Việt. (2) Câu Chuyện Của Lá
Phong (Tập Truyện Ngắn-1994) Nxb Người Việt. (3) Để Em Làm Gió (Tập
Thơ-1996) Nxb Thế Kỷ 21. (4) Cô Rơm và Những Truyện Ngắn (Tập Truyện Ngắn-1999)
Nxb Văn Nghệ. (5) Ngọn Nến Muộn Màng (Tập Thơ-2005) Nxb Thư Hương. (6) Mưa Sài Gòn
Mưa Seattle (Tập Truyện- 2006) Nxb Văn Mới. (7) Vườn Măng Cụt (Tập
Truyện Ngắn và Tản Văn - 2009 Nxb Văn Mới). (8) Thơ Tuyển Bốn Mươi
Năm (Thơ 1969-2009- Tác Giả Xuất Bản). (9) Blog:
tranmongtu.blogspot.com
Tiếng Anh:
(1) Visions of
War, Dreams of Peace, Writings of Women in the Vietnam War. Warner Books 1991.
(2) American Literature Textbook, Glencoe / McGraw-Hill, A Division of
McGraw-Hill Companies, 2000. (3) An Anthology of Vietnamese Poems: From the
Eleventh through the Twentiedth Centuries. Yale University Press, New Haven and
London, 2001. (4) The Defiant Muse (The Vietnamese Feminist Poems), The
Feminist Press and The Women’s Publishing House Hanoi, Vietnam 2007.
Các bài thơ được phổ nhạc:
1/ Dòng Sông Đứng Lại (nhạc Phạm
Anh Dũng). 2/ Tháng
Mười Hoa Cúc (nhạc Phạm Anh Dũng). 3/ Quà Tặng Chiến Tranh (nhạc Phạm
Anh Dũng). 4/ Tháng Mười Hoa
Cúc (nhạc Hoàng Quốc Bảo). 5/ Quán Lạ (nhạc Hoàng Quốc Bảo). 6/ Giọt Tình Sầu (nhạc Nam Lộc). 7/ Gọi Anh Mùa Xuân (nhạc Anh Bằng). 8/ Nhân Chứng (nhạc Vũ Tiến Dũng). 9/ Chia Tay (nhạc Nhật Ngân).10/ Kiếp Sau (nhạc Nhật Ngân). 11/ Thanh Xuân (nhạc Nguyễn Tuấn).12/ Mùa Thu Paris (nhạc Nguyễn Minh
Châu).13/
Dòng Sông Đứng Lại
(nhạc Lê Thanh Cảnh). 14/ Ngọn Nến Muộn Màng
(nhạc Lê Thanh Cảnh).15/ Tháng Tư Nhuộm Tóc
(nhạc Lê Thanh Cảnh). 16/ Quà Tặng Trong Chiến Tranh (nhạc Nguyễn Ngọc Tiến).
***
Hình 6: trái, hình bìa cuốn Mưa
Sài Gòn, Mưa Seattle, Tạp Văn của Trần Mộng Tú, Nxb Văn Mới 2006; phải,
hình bìa Thơ Tuyển Bốn Mươi Năm (1969-2009) của Trần Mộng Tú, Tác giả
xuất bản 2009. Đến nay, đã hơn nửa thế kỷ – hay chính xác hơn 54 năm sau
(1969-2023), bắt đầu bước vào tuổi 80, Trần Mộng Tú vẫn làm thơ, vẫn với sức
sáng tác phong phú và sung mãn. Có thể nói, Trần Mộng Tú như một hiện tượng rất
hiếm hoi: bà là một nhà thơ không có tuổi tác.
Trần Mộng Tú làm thơ, viết truyện ngắn, tùy bút,
làm báo. Sự nghiệp văn học của Trần Mộng Tú chủ yếu là thơ. Thơ của
Trần Mộng Tú gồm nhiều thể loại: thơ tình, thơ thời sự, với tình yêu thương sâu
sắc trước các thảm kịch như chiến tranh Trung Đông, khủng bố 911 ở Mỹ (Trả
lại tôi), 39 thùng nhân chết trên con đường kiếm sống (Tôi không thở được),
thảm họa môi sinh Formosa với hàng loạt cá chết (Gửi người em Vũng Áng)…
Văn chương của Trần Mộng Tú thanh thoát. Ở đó không hề có bóng dáng của thù hận; và
với thể loại nào cũng thấm đẫm những tình cảm đôn hậu, yêu thương, rất Trần
Mộng Tú.
TÌM LẠI THỜI GIAN ĐÃ MẤT
1968 TMT VÀ CƠ DUYÊN VỚI AP SAIGON
Sau khi thi đậu tú tài 2, Trần Mộng Tú vẫn đi học thêm Anh văn ở mấy lớp dạy tư. Khi Ba Tú về hưu,
Tú muốn đi làm thêm phụ
giúp gia đình. TMT có một thời gian ngắn đi làm trong PX Ambassador. PX này
dành riêng cho sĩ quan cao cấp và nhân viên ở Tòa Đại Sứ. Tuy Ba là công chức, làm ở sở Địa Chánh, tiếng là ông Tham, ông
Phán nhưng lương hưu cũng chẳng có nhiều.
TMT có khiếu về ngôn ngữ, nói và nghe tiếng Anh tốt nhưng không biết nhiều về báo chí. Khi đó, nhân có một người anh họ tên Đinh văn Ngọc, vừa đang học Luật vừa làm cho AP, bị động viên năm 1968. Anh ấy nói: “Em vào đây học tiếng
Anh
nhanh hơn ở trường,
cứ thử đi.” Rồi
anh ấy mang cô em vào giới thiệu. Lúc
đó Tú cũng liều, đâu biết là cả AP bao nhiêu năm nay toàn đàn ông không có phụ
nữ nào cả. Tú nghĩ chắc lúc đó ông Bureau Chef muốn
có một cô vào làm
như cần một bông hoa trang trí cho văn phòng”. Làm ở AP, Tú đã học được rất
nhiều. Lương lại cao hơn những việc khác. Việc làm có phẩm chất, hơn nữa sau giờ trưa, ông Bureau Chef AP còn cho Tú 2 giờ đi học thêm tiếng
Anh.
Văn Phòng AP trong Passage Eden trên lầu 4, phòng
420-422. Nơi
còn có các văn phòng của đài truyền hình NBC, của tuần báo nổi tiếng US World
and News Report. TMT
có rất nhiều kỷ niệm với Passage Eden, với tiệm kem Givral – nơi góc đường Tự Do và Lê Lợi. Nơi mỗi lần Thái Hoàng Cung,
người yêu đến đón, buổi trưa về
nhà anh ăn cơm, thỉnh thoảng hai người vào ăn kem hay mua bánh mang về. Tuy chưa cưới nhau, nhưng TMT đã được mẹ
Cung – một nhà giáo nổi tiếng nghiêm khắc, khi ấy bà đang làm Giám thị Đại học
xá nữ Thanh Quan trên đường Trần Quý Cáp. Bà rất thương cô con dâu tương lai và
đã coi TMT như một đứa con trong gia đình.
1968 TÌNH YÊU ĐẦU ĐỜI ĐẸP NHƯ MƠ
Do hai gia đình có hai bà mẹ thân nhau, TMT và Thái Hoàng Cung có dịp quen
nhau từ hồi trung học. Cung là con thứ hai trong một gia đình ba anh em trai.
Ba Cung nguyên là nhà giáo dạy tiếng
Pháp, mở một trường học ở Nam Định, ông bị Việt Minh bắt và thủ tiêu trong thời
gian cuộc kháng chiến chống Pháp. Lúc đó mẹ Cung cũng là nhà giáo, còn rất trẻ
đã sớm góa bụa, bà đem ba đứa con về Hà Nội, đứa lớn nhất lúc đó chỉ mới 10
tuổi, bà vừa đi dạy học vừa bươn chải nuôi nấng ba con. Vì không biết ngày
chồng chết, bà lấy ngày ông bị Việt Minh bắt đi làm ngày giỗ. Rồi tới năm 1954,
sau Hiệp định Genève, bà lại dẫn ba con di cư vào Nam.
Cung học xong năm cuối trường Jean-Jacques Rousseau, sau tú tài 2, Cung
chọn thi vào trường Đại học Sư phạm, tốt nghiệp ban Pháp văn, được bổ nhiệm đi làm
giáo sư dạy tiếng Pháp trong một trường trung học nhỏ ở miền Tây, nhưng chưa
được một năm thì có lệnh tổng động viên sau trận Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968.
Sau khi học xong khóa sĩ quan trừ bị Thủ Đức, trước khi ra đơn vị, Cung xin
gia đình cha
mẹ TMT cho làm hôn thú, vì sợ sau này sẽ khó khăn khi ở quân
đội. Trên giấy tờ, TMT có chồng từ tháng
6-1968.
NỖI
KHẮC KHOẢI CỦA MỘT CHINH PHỤ
1968 BUỔI TRƯA SÀI GÒN
Mùa mưa đang về giữa
Sài Gòn
con đường Tự Do vỡ òa
bong bóng
em đi dưới
trời mưa
Em nhớ
anh
em khóc
Những
chiếc taxi nằm im
Sài Gòn
trong mưa
Sài Gòn
buổi trưa
Sài Gòn
như nỗi chết
Sao anh
còn trẻ thế
Sao em
còn trẻ thế
Sao tình
yêu hai ta còn trẻ thế
lại lăn
vào
một cuộc
chiến già nua
Bây giờ
một người lính mới
cầm cây
súng cũ xì
ở tận
chi khu Trà Bồng
một địa
danh nghe mà
ngơ ngác
Bây giờ
một người con gái
cầm
trái tim mình bằng cả hai tay
đi dưới
cơn mưa
đầy
bong bóng nước
Ôi Sài
Gòn buổi trưa
Em nhớ
anh
Em nhớ
anh
em khóc.
Trần Mộng Tú. 1968
1969 BẢN TIN TRONG NGÀY
Em đi trong
thành phố
mùa đông đến
sau lưng em
gió thổi
trên nóc nhà thờ Đức Bà
em se mình
trong chiếc xích lô
Bản tin em lấy
về sáng nay ở Nha Báo Chí
số chết của
ta và địch
chia đôi rất
công bình
Ở tòa báo em làm
những người phóng viên
đang thu xếp ngày mai ra Đà Nẵng
không có ai đi Kiên Giang*
làm sao em gửi được cho anh
một nụ hôn vào chiếc bao thư
làm sao em gửi được cho anh
những giọt nước mắt sáng nay của em
vào trong bao thuốc lá
Em se mình trong tòa báo
hoang mang
cúi xuống một bản tin mới ra
Trưa nay
Ta chết nhiều hơn địch
Em gọi trong lồng ngực đáng thương của mình
Ôi anh!
Ôi anh!
Ôi anh!
Buổi chiều
em trở về
chiếc xích lô vẫn còn đầy gió.
Trần Mộng Tú - Tháng 3-1969
1969 TANG TÓC BA THÁNG SAU NGÀY CƯỚI
“Buổi tối của một ngày đầu tháng 8 năm 1969, khi tôi – TMT – đang ngồi xem những tấm ảnh màu đám cưới gửi từ Mỹ về, sắp
xếp để làm một cuốn album, thì nghe tiếng chuông cửa. Tôi ra mở cửa, hết sức ngạc
nhiên khi thấy Carl và anh Huân là hai
người ở Sở trước mặt. Anh Huân làm phòng tối, phụ trách về rửa phim, in hình và
Carl vừa là phóng viên vừa là nhiếp ảnh viên. Cả hai người này chẳng bao giờ
đến nhà tôi vào giờ này, càng chắc chắn là không phải gọi tôi đi làm. Tôi lúc
đó làm thư ký cho hãng thông tấn The Associated
Press, công việc của tôi là lo tất cả những việc linh tinh cho hãng: từ
phát lương cho nhân viên, giữ sổ chi thu, mua bán hình ảnh, thư ký cho ông
chánh văn phòng, đi nghe họp báo bỏ túi, v.v...
Những việc này không bao giờ phải làm cuối tuần, cũng như không bao giờ làm ca
đêm.
Cả hai người bước
vào buồng khách, cả hai nhìn tôi, rồi cả hai nhìn nhau, không ai muốn là mình
nói trước. Tôi linh tính có điều không tốt, nhưng không hiểu chuyện gì. Cuối
cùng Carl nói: “Sở nhận được điện
thoại từ Rạch Giá gọi về chiều nay, nói là Cung, chồng của cô đã tử trận.” Tôi
đứng ngẩn người, nhìn lại cả hai, không nói được tiếng nào, Carl nói tiếp: “Suốt
từ chiều, chúng tôi liên lạc được với Rạch Giá (Kiên Giang), xác định tin rõ
ràng, có gọi điện thoại nói chuyện với bà giám thị của Đại
học xá Trần Quý Cáp, mẹ Cung, cụ cũng nhận được tin rồi.” Tôi
ngồi xuống hai gót chân mình, không nghe được gì tiếp, ngoài tiếng xôn xao của
cha, mẹ và gia đình.
Chúng tôi mới cưới
nhau sau lễ Phục Sinh vào tháng Tư, Cung tử trận 30 tháng 7 năm 1969. Cung
không phải là quân nhân chính gốc, anh tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, ban Pháp Văn
và đã đi dạy được một năm, anh bị gọi trong chương trình Tổng Động Viên. Khi
nhận giấy báo phải nhập ngũ, anh đến xin cha mẹ tôi cho làm hôn thú, vì sợ sau
này sẽ khó khăn khi ở quân đội. Trên giấy tờ, tôi có chồng từ tháng 6-1968. Lúc
làm đám hỏi chú rể tương lai không có mặt (đang đóng ở chi khu
Trà Bồng), chỉ có mẹ chồng
mang trầu cau sang. Nghĩ cũng tủi thân, nhưng thời chiến mà, làm sao được. Sau
đám cưới, Cung về đơn vị, tôi vẫn ở nhà với cha mẹ, đợi Cung được biệt phái về dạy
học lại, (Bộ Giáo Dục hứa sẽ cho các giáo chức được về vào tháng 10/1969) rồi
sẽ ra ở riêng.
Chiếc máy bay vận
tải Mỹ đáp xuống phi trường Bình Thủy, Cần Thơ. Người phi công phụ quay xuống
nói với anh trai của Cung và tôi, đang ngồi cạnh chiếc quan tài.
“Chúng tôi rất
tiếc là phải thả hai người và quan tài xuống đây, vì đây là máy bay quân đội Mỹ
chở dầu, chúng tôi chỉ đi tới Cần Thơ chứ không về đến Sài Gòn.”
Đuôi máy bay mở ra, một chiếc forklift tiến đến trục quan tài ra khỏi máy bay
để giữa lòng phi đạo. Anh chồng tôi dặn: “Em đứng đây, anh
vào gặp ông xếp của phi trường này may ra được giúp đỡ.”
Buổi trưa tháng
Tám, mặt trời tóe những chùm nắng rát bỏng, chói chang trên sân bay, cái sân
bay rộng lớn chổng chơ một chiếc áo quan có phủ xộc xệch lá quốc kỳ, mấy giọt
nến đóng thành mảng khô cứng trắng đục trên màu vàng của lá cờ, một vài chiếc
lá quăn queo sót lại của vòng hoa chiều qua còn dính ở đó. Tôi tự thấy mình bé
nhỏ, mỏng manh trong chiếc áo dài màu xanh nhạt, áo nhàu nát,
tóc bơ phờ, mặt ngơ ngác đứng nhìn chung quanh mình. Cái sân bay trông sao mông
mênh thế mà cái áo quan thì bé tí, tôi đứng bên cạnh trông lại càng bé hơn. Sân
bay không một bóng người, vài ba chiếc máy bay quân sự đậu rải rác bên cạnh
những phuy dầu chưa kịp xếp vào kho. Hình như đã có mùi hôi bốc ra từ áo quan,
tôi đứng lui ra một tí nữa, xoa tay lên ngực, thấy mình nghẹn thở, ngực nặng và
đau buốt, đau thấu xuống tận bụng, tôi muốn ngất đi.
Hai ngày, một đêm
ở Kiên Giang đã làm tôi đuối sức. Tôi có làm gì đâu. Tôi chỉ không ăn, không
ngủ, không khóc, không cả vệ sinh. Chắc trong người tôi không còn nước. Bà mẹ
chồng một bên, ông anh chồng một bên, họ đổ sữa ông Thọ cho tôi. Bà mẹ chồng
tôi thật giỏi, bà có kinh nghiệm với chiến tranh, kinh nghiệm với chết chóc,
nên đi đón xác con mà bà còn nhớ đem theo hộp sữa ông Thọ cho cô con dâu tiểu
thư, cô con dâu còn mới như vuông lụa chưa thêu.
“Con uống đi. Con
mà gục xuống đây nữa thì mẹ biết nói làm sao với cha mẹ con.”
Tôi không uống được, cái mùi tử khí trưa nay của mấy chục cái xác xếp chất lớp
trước cửa nhà xác vẫn ràn rụa trong thân thể tôi. Nó phủ chụp từ đỉnh đầu xuống
hai bàn chân, khi tôi len lỏi bước qua những xác lính bên ngoài để vào bên
trong chỗ người ta để xác sĩ quan. Tôi đã phải bước qua từng cái túi có bọc
thây người ở trong, có cái thòi hai bàn chân còn nguyên đôi giày saut ra một
đầu, có cái thì lòi ra ở đầu kia một đỉnh tóc bết đất, có cái thòi nguyên một
khuôn mặt tái mét vàng khè có mấy con ruồi đậu trên đôi mắt chưa khép kín hẳn.
Tôi đi theo bàn tay dắt của người anh chồng, xúc động và kinh hoàng đã làm tôi
không còn cảm giác nữa. Không biết tôi có giẫm phải ai không. Tôi cố gắng không
giẫm lên những người đàn ông nằm đây. Vào được đến bên trong thì tôi có nhìn
thấy gì đâu. Tôi chỉ nghe tiếng bật khóc của mẹ chồng, tiếng anh chồng bảo:
“Đúng là Cung rồi.”
Hình 7: Một góc của phi trường Bình Thủy,
Cần Thơ 1969, nơi chiếc quan tài của Thiếu úy Thái Hoàng Cung được chiếc máy
bay vận tải của Quân đội Mỹ thả xuống.
Người phi công phụ
quay xuống nói với anh trai của Cung và tôi, đang ngồi cạnh chiếc quan tài. “Chúng
tôi rất tiếc là phải thả hai người và quan tài xuống đây, vì đây là máy bay
quân đội Mỹ chở dầu, chúng tôi chỉ đi tới Cần Thơ chứ không về đến Sài Gòn.” [5]
Tôi thấy hình như
tôi được bế lên, được đặt ngồi xuống một cái bậc thềm, gió ở sông thổi vào mặt
tôi, giúp tôi tỉnh lại, tôi mở mắt ra, nhìn xuống. Tôi thấy một dòng nước đục chảy
lờ đờ bên dưới. Thì ra nhà xác của bệnh viện Kiên Giang nằm sát cạnh bờ sông.
Tôi không dám nhìn vào những người đàn bà đang đi lật từng cái poncho quấn thây
người để tìm chồng, tìm con họ trước cửa nhà xác. Tôi thấy tôi còn may mắn hơn
họ.
Người ta đem xác
Cung về trại gia binh tiểu khu để làm lễ. Tôi được bày đứng cạnh áo quan cho
ông Phó Tỉnh Trưởng đọc diễn văn, trong khi ông đọc thì tôi đứng nhìn mấy cây
nến chảy, nhìn vòng hoa đã bắt đầu héo, có cả chén cơm đã khô và quả trứng luộc
có mấy con ruồi bay lên bay xuống, tàn nhang rơi phủ đầy trên đó. Ông Phó Tỉnh
đọc diễn văn xong, hấp tấp ra về. Chắc ông hơi thất vọng vì không thấy tôi khóc
để có dịp nói lời an ủi. Mấy người vợ lính trong trại gia binh, chạy sang thăm
hỏi, mấy đứa nhỏ con lính chạy loanh quanh áo quan với mấy con chó gầy trơ
xương, trụi cả lông, cái áo chúng mặc ngắn cũn, bụng ỏng ra ngoài, mũi thò lò
cũng chẳng chùi. Chúng tròn mắt nhìn mấy người Sài Gòn, mặt mũi có vẻ khang
khác với những người trong
trại lính này. Có người cũng từ xa đến chưa tìm ra xác chồng, xác con đến hỏi
han bà mẹ chồng tôi với con mắt nặng trĩu và gương mặt thất thần.
Tôi đứng đó lơ mơ nghe lao xao những tiếng nói chồng lên nhau, mỗi người kể một
cách, giống như ở nhà tôi mỗi khi đi xem một cuốn phim về, chị em tôi vẫn
thường tranh nhau nói như thế. Hình như họ nói về trận đánh ngay ở xã Vĩnh
Thanh Vân. Xã này, tôi không biết ở đâu nhưng chắc là rất gần. Họ nói đánh ba
bốn hôm rồi, và vẫn còn đánh nên xác không kéo ra hết được, phải ngồi chờ thôi.
Cứ ngồi chờ thế nào cũng gặp, họ bảo nhau:
“Không thấy người thì thấy xác. Thế nào cũng gặp mà!”
Người anh chồng thì thỉnh thoảng lại biến mất, không biết đi đâu, chắc là đi
tìm cách đưa mọi người về nhà. Tôi thấy trong những người đi nhận xác chỉ có ba
người trong gia đình này ít khóc nhất. Bà mẹ chồng tôi thì vừa mếu máo vừa lo
xin nước sôi pha sữa cho con dâu uống. Con bé này vốn đã gầy, hai hôm rồi nó
chẳng ăn, chẳng nói gì làm bà phát hoảng, giá nó cứ khóc sướt mướt như mấy
người vợ lính đang khóc ngoài kia thì bà lại đỡ lo. Không biết còn kẹt ở đây
đến bao giờ? Bằng vốn liếng tiếng Pháp bà nói chuyện với một ông sĩ quan Mỹ cho
bà quá giang máy bay quân sự về Sài Gòn, rồi bà sẽ
thuê máy bay dân sự xuống đây đón mấy đứa con. Bà giỏi lắm. Mấy chục năm trước,
còn trẻ măng mà bà đã một mình thuê đò ở Nam Định đi tìm chồng. Chồng bà đang
đêm được Việt Minh đập cửa mời đi, rồi cả tháng không thấy về. Ông được mời vì
lúc đó ông có một ngôi trường nhỏ dạy học tiếng Pháp ở Nam Định. Bà đi đò, đi
bộ cả bao nhiêu cây số, đến tận chỗ không ai dám bén mảng đến hỏi tin tức
chồng. Họ bảo về đi, bắn chết rồi. Bà lại thuê đò về, tính ngày đi của chồng
dùng làm ngày giỗ vì bà không biết ông bị xử bắn vào hôm nào. Mấy hôm sau bà bỏ
nhà ở Nam Định, dắt ba thằng bé, đứa lớn nhất chưa quá 10 tuổi tìm đường ra Hà
Nội. Đi làm, nuôi con ăn học. Rồi lại dắt con di cư vào Nam. Ai làm được gì thì
bà cũng làm được như vậy. Bà cũng khóc chứ. Nhưng nước mắt thì vốn chóng khô vì
nó không chảy hết ra một lúc, nó chảy rỉ rả ít một. Chảy suốt một đời. Cô con
dâu bà mới cưới được có ba tháng, còn trẻ lắm, lại chưa có con, đi đón xác
chồng lại có mẹ chồng, anh chồng bên cạnh. So với bà,
cô còn may mắn chán.
Mà đúng thật, bà mẹ chồng tháo vát của tôi số khổ hơn con dâu. Bà xin lên được
máy bay về trước các con một hôm thì cũng bị thả xuống phi trường Bình Thủy đêm
hôm đó, máy bay không về đến Sài Gòn. Một cơn mưa tháng Tám bất chợt ập xuống
làm bà ướt sũng, thất thểu tìm một nhà thờ vào xin ngủ qua đêm, bà không cần
khóc nữa, trời đất khóc hộ bà rồi. Sáng hôm sau bà đi xe đò về Sài Gòn.
Trong khi đó thì các con của bà: con sống, con chết
cũng bị thả xuống chỗ mẹ ngày hôm qua, nhưng không phải buổi tối mưa sũng nước
mà một buổi trưa đầy nắng.
Cuối cùng thì cũng đưa được quan tài về Sài Gòn. Khi xuống đến phi trường Tân
Sơn Nhất thì cả người và cảnh trông thật bắt mắt. Nếu có cần quay một cảnh phim
cho chiến tranh thì hay quá. Cái quan tài cũng không cần phải trang trí cho ra
vẻ tang thương hơn nữa. Lá cờ phủ trên nó nhàu nát, xộc xệch, cô đơn, đã đủ vẻ
tang thương. Hai nhân vật thất thểu xác xơ đứng cạnh không cần phải hóa trang
hay diễn xuất, họ đi đứng như người mất hồn, ngơ ngác, thất lạc, rơi ra từng
mảnh như những người lính vừa bại trận trở về. Cứ dựng máy quay phim lên, quay
họ như thế vào phim cũng tuyệt lắm rồi.
Sau này tôi nghĩ lại vẫn tự hỏi. Tại sao lúc đó mà mình tỉnh khô như vậy, sao
mình không phát rồ, phát điên, không đập đầu vào tường? Cả
trăm câu hỏi cứ chạy lung tung trong đầu tôi bao nhiêu năm trời.
Một chiếc xe nhà binh đón chở áo quan từ phi trường đến nhà xác bệnh viện
Grall. Đã bảo bà mẹ chồng tôi là người tháo vát mà! Bà còn xin được miếng đất
chôn Cung trong Mạc Đĩnh Chi để bà thăm viếng cho tiện, chứ lên tận Nghĩa Trang
Quân Đội thì làm sao bà có thể đi thăm thường xuyên được.
Họ cho Cung đi qua nhà, dừng lại cho Cung nhìn chỗ mình đã sống, đã lớn lên một
lần chót. Chẳng biết ai là người nghĩ ra cái tục không được chết ở nhà thì phải
ghé qua nhà trước khi ra đi hẳn mà hay thế! Tôi thấy những người lân cận và một
vài người họ hàng đã đứng chờ sẵn trước cửa nhà. Họ
nhìn tôi, nhìn quan tài như xem phim chiếu chậm, họ quen quá rồi cái cảnh này
những năm gần đây. Tôi còn trẻ quá, họ nghĩ. Thế nào rồi cũng quên đi, cũng lại
lấy chồng, chỉ tội cho bà mẹ anh ta.” [5] [Bình Thủy, 1969]
1970 TMT TRỞ
LẠI SỐNG VỚI BÌNH THƯỜNG MỚI
Cho dù có chồng chất đau đớn và tang
thương đến thế nào, cuộc “chiến tranh già nua” ấy – chữ của TMT, vẫn cứ lạnh lùng tiếp diễn,
với vô số đạn bom vô tri của cả đôi bên. Mỗi ngày Sài Gòn, và cả trên khắp nẻo
đường đất nước, vẫn có thêm bao nhiêu vành khăn tang mới và rồi họ vẫn cứ phải
sống.
Sau khi Cung mất, TMT trở
lại đi làm cho AP,
vẫn được cả hãng quý mến, họ mừng đám cưới rồi sau
đó lo
đám tang cho chồng TMT, chỉ cách nhau có 3 tháng. Vì mẹ TMT và mẹ Cung thân nhau nên liên hệ hai gia đình không có gì thay đổi từ
ngày Cung mất. Trong suốt 7 năm còn ở Việt Nam, mỗi trưa đi làm ra TMT đều về nhà ăn cơm với Mẹ Cung, nếu không phải
ngày đi học thì ra nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi thăm mộ chồng, sau đó mới trở lại Sở làm.
Trở lại với Văn phòng AP ở Sài
Gòn. Cứ 2 năm office thay
một ông Bureau Chef mới. Ông nào cũng quý mến và bảo vệ người con gái
duy nhất kém may mắn của AP. Tuy không
phải là nhà báo, TMT đôi lần cũng được đi du lịch
nước ngoài,
sang Mỹ, rồi sang Nhật với danh nghĩa ký giả AP ở thời điểm 1971- 1972, hồi đó ra nước ngoài rất
khó. TMT đi rồi lại về,
không hề nghĩ chuyện ở lại Mỹ. Ba Tú thương con gái, cứ dặn
đi dặn lại: “Con đi chơi rồi về chứ đừng ở lại một mình xứ
người.”
*
Hình 8: Trần Mộng Tú (2a) Tokyo 1971, (2b)
New York 1972. [tư liệu TMT]
Hàng ngày tiếp xúc với các ký giả, phóng
viên nhiếp ảnh từ các nơi
tới, từ Mỹ sang. Họ đến rồi đi, Tú chưa hề nghĩ mình sẽ lập gia đình với một
người nước ngoài. Ngay cả sau khi người chồng mới cưới của TMT
tử trận,
TMT cũng dửng dưng với
những ký giả muốn làm thân.
Tuy không
phải ký giả nhưng đôi khi TMT cũng phải
chạy tới mấy nơi có họp báo để lấy tài liệu, ghi notes nếu
các ký giả ra chiến trường hết. Có lúc Office vắng tanh cả tuần liền, chỉ còn Tú
và ông Chánh Văn Phòng, TMT phải lo mọi việc từ mua hình, chạy đi lấy bản tin
đến họp báo bỏ túi. Mấy photo stringer [chụp hình nghiệp dư] Việt Nam thì thích gặp Tú lúc tới bán hình vì bao giờ Tú cũng trả
thêm cho họ, thay vì 20 US$ cho một
tấm hình, Tú trả cho họ 25 US$ – trong đó có nhà báo Nguyễn Tú A, mà Tú còn
nhớ.
Từ một cô học trò mới xong Trung Học, TMT rơi ngay vào môi trường báo chí của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. TMT học
được nhiều giữa chiến tranh và đời sống. TMT nghĩ cũng nhờ đó mà Tú trưởng
thành trong cách viết về chiến tranh sau này. Thỉnh thoảng TMT cũng sang văn phòng Tuần
báo Times bên khách sạn
Continental để đưa hay
lấy một tài liệu gì đó, gặp nhà báo Phạm Xuân Ẩn. Mẫu người khắc khổ, ít
nói nhưng Tú nhớ mỗi lần gặp, Phạm Xuân Ẩn tuy không cười nói vồn vã,
nhưng thường nhìn Tú bằng ánh mắt hiền từ, không thấy
giống điệp viên 007
chút nào.
TMT học việc rất nhanh. Chỉ khó khăn lúc đầu, thỉnh thoảng khi có biểu tình dưới phố, ngay trước tòa
nhà Quốc Hội, mấy ký giả Mỹ lôi Tú xuống nhờ dịch mấy biểu ngữ, Tú lúng túng vô cùng vì không biết danh từ chuyên môn tiếng Anh về Đả
Đảo, Hoan Hô. Dần dần làm lâu, nghề dạy nghề, cũng thông thạo. Bây giờ thì
quên nhiều lắm rồi. Thỉnh thoảng, tòa soạn AP
trống trơn, các ký giả ra chiến
trường hết, nếu có "Họp Báo Chớp Nhoáng" bên
MACV hay bên Bộ Dân Vận Chiêu Hồi, Chánh Văn Phòng cử TMT đi, Tú cũng biết
ghi lại để mang về office cho ông.
BẦY CHIM BỎ XỨ * [tên một tổ khúc của nhạc sĩ Phạm Duy]
NHỮNG NGÀY ĐẦU DI TẢN – TMT VÀ FRANK
Hơn ai hết, giới truyền thông báo chí
Mỹ đã biết rất rõ số phận những ngày tháng Tư cuối cùng của Sài Gòn; và chuyến bay đầu tiên di tản nhân viên
của hãng Thông tấn AP là vào ngày 21/4/1975.
Nhóm Việt Nam được di tản sớm gồm có: Trần
Mộng Tú và ba mẹ, cùng với Nick Út, và gia đình Đặng Văn Phước. Khi tới Mỹ, họ
được đưa ngay vào khu tạm trú ở Camp Pendleton – là một trại
lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ gần San Diego. Do TMT có một người bạn tên John
Parkson, trước làm cho NBC Sài Gòn, có văn phòng ngay cạnh AP, anh ấy mang theo người vợ
Nhật vào trại thăm,
thấy TMT có cha mẹ già nên muốn bảo lãnh cho ra ngay. TMT và ba mẹ ra trại ngày thứ Sáu 13/6/75, và ở nhà người bạn đó, nơi thành phố Encino, California. Mới được hai tuần lễ, thì có một ngân hàng Nhật tên Sumitomo Mitsui trên đường Figueroa, Los Angeles có opening cần mướn một thâu ngân viên / bank teller, TMT nộp đơn tới phỏng vấn, cùng với hai cô người Mỹ khác, may mắn sao họ nhận TMT, có lẽ thấy Tú là người Á Đông, lại thông thạo Anh Ngữ.
Cũng người bạn NBC ấy đã thuê cho
gia đình TMT một apartment gần World Trade Center trên đường
Figueroa nơi có ngân hàng Mitsui. TMT có thể
từ nhà đi bộ tới
chỗ làm việc vì
lúc đó làm gì có xe, và cũng chưa đi học lái xe. Có việc thì mừng lắm,
đi làm ngay nhưng TMT không biết là cô có thể
hưởng trợ cấp và đi học miễn phí. Nếu biết, Tú chắc sẽ đi học một nghề gì đó.
Trừ Nick Út vì có giải Pulitzer
(1973) với tấm ảnh “Em bé Napalm” được giữ lại làm phóng viên ảnh cho
AP. Đặng Văn Phước, phóng viên nhiếp
ảnh khác cũng được giữ lại nhưng anh Phước bị gửi sang Hồng Kông, do vất vả quá, nên xin thôi AP và trở lại Mỹ.
Các nhân viên khác thì AP cho nghỉ việc, mỗi
người được AP cấp cho một số tiền
là 3.000 USD,
rồi tự túc sau đó. [Theo
chuyên gia ngân hàng Võ Tá Hân, thì số tiền đó khá lớn, nếu tính theo thời giá
bây giờ là khoảng hơn 16.000 USD].
TMT vẫn tin rằng mọi việc do Trời sắp đặt cả. Khi
ấy, trong building có một chàng trai Mỹ tên Frank – có cha gốc người Anh và
mẹ gốc Ái Nhĩ Lan, cũng mới dọn vào trước đó một tháng. Anh
ấy vừa từ Orange County lên, và
mới vào làm công chức. Hai
người thỉnh
thoảng gặp nhau ở
khu Mail Box
trong chung cư. TMT hỏi han đường xá, Frank tận
tình chỉ dẫn, thấy
Tú có cha mẹ già và nhà chưa có xe nên anh
nhận đưa cha mẹ Tú đi nhà thờ cuối tuần,
anh cũng là người theo
đạo Thiên Chúa.
Rồi
hai người, TMT và Frank nên duyên vợ chồng.
Tháng 9/1976
– 7 năm sau ngày Cung mất, Frank và Tú chính thức lập gia đình,
sau này TMT mới biết Frank nhỏ hơn 5 tuổi.
Lúc lập gia đình TMT gần như hai bàn tay trắng
nhưng có được
việc làm. Hai vợ
chồng thuê apartment để ở. Khi sanh con đầu lòng, mẹ chồng cho tiền down mua căn nhà đầu tiên, hàng tháng chỉ trả ít, không phải cố gắng. Frank
là người sống rất giản dị và chăm làm, anh nói Tú ở nhà trông con, một mình anh đi làm là đủ. TMT vẫn nhớ câu anh
nói: Nếu em không muốn con em đưa em vào nhà dưỡng lão thì cũng
không gửi con vào nhà trẻ. TMT ở nhà đến khi cháu út 11 tuổi Tú
mới đi làm trở lại. Công việc mới sau này là thông dịch viên hữu thệ, khó
thi vào nhưng TMT đã vượt qua, và làm công việc ấy trong lãnh vực y tế cho đến
lúc nghỉ hưu.
Frank tốt nghiệp
Đại học Công Giáo Loyola Chicago, có cử nhân toán, ban đầu đi làm công chức trong lãnh vực kế
toán, nhưng than công việc chán quá! TMT
bàn với chồng: anh nên đi học về computer, Tú nghĩ sẽ
thích hợp hơn với anh. Lúc đó là thập niên 1980, môn học
này tương đối rất mới. Frank nghe lời vợ, xin thôi đi làm. TMT
bán nhà, trả hết tiền gốc, còn được bao nhiêu, hai vợ
chồng dùng nửa số tiền đó down mua một căn nhà khác nhỏ hơn, số tiền còn lại cho Frank đi học. Frank học 6 tháng về
Computer Programmer xong, có việc ngay, lương khá. Tú nói chưa được, anh phải vừa đi làm,
vừa đi học thêm sao cho tương đương với trình độ 4 năm. Frank nghe, đi làm ra,
đến UCLA học thêm, hết khóa này đến khóa khác.
Vẫn với bản năng đảm đang của người phụ nữ Việt Nam, chỉ
biết lo cho chồng cho con. Tối nào sau khi dỗ cho con ngủ, TMT cũng đợi chồng tới 11 giờ khuya, tới khi chồng về cùng ăn
bữa tối, mới đi ngủ. Frank sẵn giỏi toán, vào ngành điện toán như cá gặp nước. Đi làm ở đâu cũng thành công, và là nhân
viên chính của hãng.
Đến bây giờ Frank vẫn nói: nhờ vợ mới có công việc thích hợp. Cũng để thấy, phụ nữ Việt Nam biết lo cho
chồng con và xoay sở trên đất
người như thế nào.
Khi TMT bị đẩy ra khỏi nước, cả gia đình Cung cũng
ra đi, chỉ có Cung là người ở lại. Cung cũng chẳng khác gì những người còn
sống, cũng bị chiếm đoạt tài sản, cũng bị đuổi nhà.
Ngôi mộ Cung trên miếng đất đã được Mẹ mua cho trong nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi
cũng bị dời đi. Người anh họ còn ở lại, tìm cho anh một
nơi cư ngụ mới trong nhà thờ Tân Định.
SEATTLE ĐẤT LÀNH CHIM ĐẬU 1988
Sau 13 năm sống ở California. Năm 1988, Trần Mộng Tú ở tuổi 45, đã cùng gia
đình dọn về sống ở Seattle, tiểu bang Washington. Nơi có không khí
trong lành và cuộc sống bình yên hơn Los Angeles. Cùng với năm tháng êm đềm
trôi qua, ba đứa con đều đều tới tuổi
trưởng thành: hai trai, một gái
và các cháu nội ngoại và rồi ra ở riêng.
Frank không chỉ là người chồng mà còn là một người bạn. Frank quý
mọi người và không kỳ thị. Anh tôn trọng những người bạn Việt Nam của TMT. Tới mức có một
người bạn văn của TMT phải khen: Frank hiền như một ông thánh. TMT thì
không nghĩ như vậy, vì ông thánh ấy cũng có lúc “biển động, núi gầm” nhưng do cả hai quan tâm tới nhau, tương kính như
tân, và họ biết nhường nhịn, biết trân quý những ngày êm ả.
Về sở thích văn chương của TMT, Frank tuy không chia sẻ được trong việc sáng tác, nhưng khuyến
khích và hỗ trợ vợ
tối đa. Căn nhà rộng, hai vợ chồng mỗi người một phòng. Frank có
master bedroom làm office luôn. TMT có một phòng và một office. Vẫn dư một phòng nên TMT làm thành phòng đọc sách kiểu Nhật. Chiếu trúc, gối trúc
mang từ VN về.
Ở cửa phòng viết của TMT, Frank treo một dòng chữ viết tay ‘Quiet! Poet at work’ khi
Tú ở trong đó, để các con không làm phiền mẹ.”
TMT tin vào số phận, nghĩ rằng Thượng Đế đã viết cho mỗi người một kịch bản, mình cứ thế
mà theo mà đóng vai trò đã định sẵn, thế thôi. “Tôi cám ơn Thượng Đế đã tạo ra tôi là
một người biết yêu chữ nghĩa, nhất là yêu Thơ”.
*
Hình 9: Trần Mộng Tú nơi thư phòng. Trên
cánh cửa bên ngoài phòng làm việc của TMT có dán mảnh giấy với mấy chữ viết tay
của Frank, chồng Chị: “Quiet! Poet at work”, sao cho đám con
nhỏ không làm phiền mẹ. Hơn 40 năm sau ngày
cưới, nay đã là ông bà nội ngoại, nhưng họ vẫn giữ được lễ “tương kính như
tân”. [tư liệu TMT]
NHÀ THỜ TÂN ĐỊNH
SÀI GÒN 23 NĂM SAU [11-1998]
… “Lần đầu tiên về
thăm lại Việt Nam năm 1998, sau 23 năm, tôi đi tìm Cung ở nhà thờ Tân Định. Tôi đi len lỏi giữa những dãy kệ, đọc từng cái tên, đi đến vần
“T” là họ của Cung. Tôi nhìn thấy một cái hộc nhỏ, không có hình chỉ có ghi họ,
tên, ngày sinh, ngày mất. Tôi đứng lặng người, run rẩy chạm những ngón tay mình
lên mặt chữ. Cái cảm giác chạm tay vào đầu áo quan của năm 1969 bỗng hiện ra
dưới những ngón tay tôi. Một tiếng nấc đưa lên thanh quản, vỡ òa ra, tôi khóc
như chưa bao giờ được khóc. Nước mắt của bao nhiêu năm tụ lại một ngày, nước
mắt của những ngày đi đón xác ở Kiên Giang khô lại bây giờ nứt ra như một mạch
ngầm của suối bật lên trên mặt đất nứt nẻ. Tôi khuỵu chân ngồi xuống giữa lối
đi của hai hàng kệ, khóc như chưa bao giờ được khóc.
Chung quanh tôi vắng lặng. Tôi trầm mình vào nước mắt, vào bất hạnh, vào nỗi cô
độc của mình. Cái hộc nhỏ đựng tro than bên trên đầu tôi vẫn thản nhiên, im lìm
nhìn như trước khi tôi đến.” [Bình Thủy tháng 8-1969, Tân Định, tháng 11-1998] [5]
THƠ TMT TRONG SÁCH GIÁO KHOA MỸ NĂM 2000
Có ba sự kiện đáng nhớ năm 2000 trong sự
nghiệp văn học của TMT:
(1)
Từ năm 2000, có một giai đoạn Trần Mộng
Tú viết truyện nhi đồng cho báo Los Angeles Times;
(2)
Có thơ Anh ngữ trong sách giáo khoa Mỹ cho chương trình trung
học (American Literature – Glencoe – 1999).
(3)
Chủ Bút Nguyệt
San Phụ Nữ Gia Đình Người Việt ở California. (2002 - 2005).
Hình 10: Trần Mộng Tú viết truyện ngắn nhi đồng tiếng Anh mỗi cuối tuần trên
báo Los Angeles Times từ năm 2000. [nguồn: L.A. Times archives]
Trong bộ sách
giáo khoa Glencoe Literature, trước khi giới thiệu bài thơ “Quà Tặng Trong
Chiến Tranh, qua mục “Gặp Trần Mộng Tú”, tác giả bài thơ được giới
thiệu như sau: Trần Mộng Tú người có
trải nghiệm trực tiếp với chiến tranh, đã phát biểu: “Chiến tranh là điều
khủng khiếp”. TMT sinh ở Hà Đông, Bắc Việt Nam. Cô và gia đình di cư vào
Nam năm 1954. Do cuộc chiến tranh Đông Dương, Pháp đã bị lực lượng cộng sản đẩy
ra khỏi Việt Nam. Rồi Miền Nam Việt Nam cũng không yên ổn được bao lâu, và một
cuộc nội chiến nổ ra giữa cộng sản và người quốc gia không cộng sản. Tới thập
niên 1960s, khi Hoa Kỳ can thiệp trực tiếp vào cuộc Chiến tranh Việt Nam, thì
TMT làm việc cho hãng thông tấn AP ở Sài Gòn. Khi Hoa Kỳ rút quân ra khỏi Việt
Nam năm 1975 [thực sự Hoa Kỳ đã rút quân ra khỏi Việt Nam từ 1972, ghi chú
của người viết], AP đã di tản nhân viên Việt Nam của họ do sợ bị cộng sản
trả thù, TMT và gia đình cùng với nhiều ngàn người Việt khác đã tỵ nạn sang Hoa
Kỳ. Từ bậc tiểu học, TMT đã mơ trở thành nhà văn, nhưng thơ văn của TMT chỉ
thực sự được xuất bản tại Hoa Kỳ. Hiện nay TMT làm thơ, viết truyện ngắn cho
các nhà xuất bản văn học tiếng Việt tại Hoa Kỳ và hải ngoại. TMT sinh năm 1943.”
[3]
Phần tiểu sử Trần
Mộng Tú trong cuốn sách Giáo khoa Glencoe
(2000), phải nói là thiếu sót, chỉ ghi cô làm cho hãng Thông tấn AP và
làm thơ, nhưng đã không nói tới một sự kiện quan trọng ảnh hưởng trên suốt
cuộc đời TMT, là cô trở thành quả phụ ở tuổi mới ngoài 20, khi người chồng mới
cưới của cô đã tử trận chỉ 3 tháng sau ngày cưới.
Một chi tiết nữa
khá quan trọng, là bài thơ Quà Tặng Trong Chiến Tranh bản gốc tiếng Việt
là cuộc đối thoại đau xót giữa hai người: cô gái trẻ TMT và người chồng mới
cưới vừa tử trận, nhưng bản dịch bài thơ sang tiếng Anh có đoạn lại trở thành
cuộc độc thoại của “ngôi thứ nhất”. Sự sơ sót ấy vẫn lặp lại trong hai cuốn
sách giáo khoa Mỹ xuất bản cách nhau 9 năm, [Visions of War 1991, và Glencoe
Literature 2000].
Một bản dịch “Quà
Tặng Trong Chiến Tranh” của Đặng Vũ Vương đúng với tinh thần nguyên bản tiếng
Việt nhưng là 57 năm sau (1969 – 2023):
QUÀ TẶNG TRONG
CHIẾN TRANH
GIFTS IN
WARTIME
Em tặng anh hoa hồng
my gift to you a rose
Chôn trong lòng huyệt mới
to bury it inside the newly dug grave
Em tặng anh áo cưới
my gift to you my wedding dress
Phủ trên nấm mồ xanh
to drape it over the new green tomb
Anh tặng em bội tinh
you gave me the silver star
Kèm với ngôi sao bạc
that came along with the military medal
Chiếc hoa mai màu vàng
and the insignia of yellow apricot flowers
Chưa đeo còn sáng bóng
that are still shiny for being never worn
Em tặng anh tuổi ngọc
I gave you the jade-quality time
Của những ngày yêu nhau
Of the days of us loving each other
Đã chết ngay từ lúc
that died right away at the moment
Em nhận được tin sầu
when I received the dreadful news
Anh tặng em mùi máu
You gave me the smell of
blood
Trên áo trận sa trường
still lingering on your
battle dress
Máu
anh và máu địch
your blood and the enemy’s blood
Xin
em cùng xót thương
and asked me to have pity on both
Em tặng anh mây vương
I gave you the hanging clouds
Mắt em ngày tháng hạ
the eyes of mine of summer days
Em tặng anh đông giá
I gave you the wintry freeze
Giữa tuổi xuân cuộc đời
In the middle of the spring of life
Anh tặng môi không cười
you gave me non smiling lips
Anh tặng tay không nắm
you gave me unclenched hands
Anh tặng mắt không nhìn
you gave me non seeing eyes
Một hình hài bất động
A totally non-moving form
Anh
muôn vàn tạ lỗi
I beg you I beg you to
pardon me
Xin
hẹn em kiếp sau
with the hope of a next life 's reunion
Mảnh
đạn này em giữ
This shrapnel is for you to keep
Làm di vật tìm nhau.
as a token for us to find each other
Sài Gòn Tháng 7/ 1969
Trần Mộng Tú
[ Đặng Vũ Vương – Translated
4/16/2023 ]
***
Hình 11: từ trái, (1)
bìa cuốn Sách Giáo khoa Văn Học Mỹ, (2) trang đầu của tác phẩm với thủ
bút của nhà thơ Trần Mộng Tú tặng người viết, 3) trang tiểu sử, giới thiệu nhà
thơ Trần Mộng Tú; (4) trang thơ
tiếng Anh “Quà Tặng Chiến Tranh” với hai tấm hình tìm thấy được trên xác
của một tử sĩ Bắc quân. American Literature Textbook, Glencoe/ McGraw-Hill,
A Division of McGraw-Hill Companies, 2000. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Bài thơ
“Quà Tặng Trong Chiến Tranh”, dịch sang Anh văn đã được chọn vào
sách giáo khoa Mỹ (American Literature – Nxb Glencoe /McGraw-Hill) vào năm 1999, để cho các học
sinh Trung Học có dịp so
sánh với bài diễn văn “The Gettysburg Address” của Tổng Thống Abraham Lincoln đã làm nhiều người xúc động và tự hào.
TMT thì xúc động vì bài Thơ đó viết vào
năm 1969, “như một tờ vàng mã” đã hóa trên phần mộ ở đất
nước Việt ba mươi năm về trước, bây giờ ở trên đất Mỹ bài thơ được mang ra như một mảnh băng
quấn lại một vết thương đã thành sẹo. Vết sẹo, thoảng có khi nào
cúi xuống nhìn cũng chợt ửng đỏ”. [6]
Một giai thoại
về bà cô Trần Mộng Tú: có một câu chuyện hy hữu về cuốn sách, Jessy là tên một đứa cháu gọi Frank -- chồng TMT bằng bác, năm đó Jessy học lớp
11 ở Houston, Texas. Khi cháu
được học bài thơ "A
Gift in Wartime" cháu giơ tay nói: Đó là bài Thơ của Cô tôi / My aunt. Nhưng không ai tin vì Jessy là thằng bé Mỹ đặc, tóc vàng mắt
xanh. Tháng sau, cháu Jessy tới Seattle đòi chụp một tấm hình với Aunty Tú, rồi mang về lớp để
làm bằng chứng, lúc đó thì tụi bạn Jessy mới thực sự tin.
Hình 12: Trần Mộng Tú 1994 [photo by Lê Phúc]
2003 LOS ANGELES: THE ETHNIC PULITZERS
Năm 2003, Trần Mộng Tú được The New California
Media (NCM) trao giải thưởng báo chí cho bài “Bình Luận”: Một chốn
Bình an [A Safe Place], đã được đăng trên trên nguyệt san Phụ Nữ Gia
Đình. Giải thưởng đặc biệt này còn có tên gọi là “The Ethnic
Pulitzers”.
Tổ chức NCM đã viết về TMT như sau: “Trần Mộng
Tú đã được biết tới trong thế giới truyền thông từ 1965 [*từ 1968, ghi chú
/ hiệu đính của người viết] như một thư ký của hãng thông tấn AP Sài Gòn.
Khi chiến tranh chấm dứt năm 1975, Trần Mộng Tú đã thoát ra khỏi Việt Nam như
một người tỵ nạn. Với lòng yêu văn chương Việt Nam cùng với những cảm xúc của
tình cảnh lưu vong đã biến cô thành một nhà văn. Cùng với công việc của một chủ
bút, Trần Mộng Tú còn phụ trách mục bình luận trên tờ báo tiếng Việt, đúng như
tên gọi quan tâm tới các vấn đề “Phụ nữ và Gia đình”. Trần Mộng Tú đã viết và
xuất bản một tập thơ và một cuốn truyện ngắn. Bài bình luận được thắng giải của
Trần Mộng Tú viết về đứa con gái của bà lên New York làm việc thiện nguyện cho
hội Hồng Thập Tự ngay sau biến cố 9/11/2001. Bỗng chốc, bà cảm thấy nước Mỹ
nơi bà chọn đi tỵ nạn sau cuộc chiến tranh xâu xé ở Việt Nam, không còn là một
chốn bình an như bà vẫn nghĩ. Với lòng hãnh diện và cả với những nỗi lo âu
cho đứa con của mình trên xứ sở đang dung thân, đã thúc đẩy bà viết bài báo này.Trần
Mộng Tú phát biểu: “Mặc dầu đó là mối lo của một bà mẹ Việt Nam, nhưng cũng là
mối lo của tất cả các bà mẹ khác.”
Hình 13: Năm 2003, Trần Mộng Tú được
The New California Media (NCM) trao giải thưởng báo chí cho bài “Bình Luận”:
Một chốn Bình an / A Safe Place, đã được đăng trên tờ nguyệt san Phụ Nữ Gia
Đình. Giải thưởng đặc biệt này còn có tên gọi là “The Ethnic
Pulitzers”. [nguồn: tư liệu TMT]
Hình 14: hình chụp 2002
tại tòa soạn nhật báo Người Việt, từ trái Minh Phú, Đỗ Quý Toàn, Trần Mộng Tú,
Bùi Bích Hà, Hoàng Vĩnh, Phạm Phú Minh. Cũng là thời gian Trần Mộng Tú đang làm chủ bút Nguyệt San Phụ Nữ Gia Đình Người Việt ở California, cùng với nhà văn Bùi Bích Hà
làm Chủ nhiệm (2002 - 2005). [tư liệu NT Ngọc Dung]
*
Hình 15: Bìa Tuyển tập Thơ Song
ngữ Nàng Thơ Ngạo Mạn / The Defiant Muse, do The Feminist Press at the
City University of New York xuất bản 2007, có duy nhất một bài thơ Trần Mộng Tú “Con Mèo Cô đơn – The Lonely Cat”.
HỘI NGỘ AP 36 NĂM SAU: SAIGON 1975 -
LITTLE SAIGON 2011
Năm 2011, tại hải ngoại, lần đầu tiên
có một buổi hội ngộ các cựu nhân viên Văn Phòng Associated Press Saigon tại tòa
báo Người Việt, Little Saigon, California.
Hình 16: Năm 2011, tại hải
ngoại có một buổi họp mặt các cựu nhân viên Văn Phòng Associated Press Saigon
tại tòa báo Người Việt, Little Saigon, California. Từ trái: Neal Ulevich ( AP), Terry Wolkerstofer (nhà báo tự do), Carl Robinson (AP ), Trần Mộng Tú (AP) và Frank (chồng TMT), Phương Dung Robinson (vợ Carl), Đặng Văn Phước, áo khoác đen (phóng
viên nhiếp ảnh AP), Murray Fromsen (nhà báo tự do), Linda Deutch (nhà báo tự do), Valerie Komor (nhà báo tự do), Nick Út (phóng viên nhiếp
ảnh AP), Edie Lederer (nhà báo tự do), Dick Pyle (Trưởng phòng Thông Tấn
AP) và vợ; người ngồi
phía trước cầm tấm hình là Lư Xây (chuyên viên phòng tối rửa hình của AP). [tư liệu và ghi
chú của Trần Mộng Tú]
2016 ĐỐT HÌNH ĐÁM CƯỚI VÀ ĐÁM TANG
“Tôi nghĩ mình đã bước vào tuổi cuối đời rồi, lúc đó TMT đã bước
qua tuổi 70, không
biết "Cuốn theo chiều gió" lúc nào. Không nỡ để lại lúng túng cho
mấy đứa con. Chúng đốt thì sợ Mẹ buồn, giữ thì không biết để đâu. Thôi thì mình
tránh cho ai được cảnh lúng túng đau lòng thì nên tránh. Mình quen với đau lòng rồi. Bây giờ tôi còn giữ lại một chút tàn
tro.”
Hình đám cưới và đám tang gần 100 tấm. Đã đốt hết một nửa ở nhà. Còn một nửa mang xuống Cali đốt tiếp. Lúc
đốt cũng đau lòng lắm, nước mắt nước mũi giàn giụa.
*
Hình 17: Đốt hình đám
cưới, đốt hình đám tang ngày 31/10/2016, trong giàn giụa nước mắt, rũ bỏ kỷ
niệm, trả về với “tro than” trong sân nhà Chị Bùi Bích Hà. [tư liệu TMT]
TMT không sao
nhớ được đã viết xuống bao nhiêu bài thơ. Vì trong cả 15 năm đầu ở hải ngoại, chưa có computer nên toàn viết tay, lúc nào TMT cũng làm thơ
được. Đang lái xe, ngưng lại ở góc đường hay kẹt xe ở xa lộ cũng viết được
những câu thơ chợt
đến. Hồi đó đã có lần tông vào cột telephone rồi. Một lần tông vào cái xe truck
đằng trước vì lúi húi viết trên volant. Bây giờ thỉnh thoảng dọn lại tủ sách, hoặc giữa đống sách vở chung quanh nhà, gặp một bài thơ,
không biết viết từ bao giờ.
Nhiều người nhắc tới “Bình
Thủy 1969” gọi đó là truyện
ngắn – nhưng thực sự đó
là một "tự truyện" của TMT; được nhà văn Phùng Nguyễn đánh giá đó là một "Hồi Ký về Chiến
Tranh hay nhất”. [6]
2009 CÔ GÁI TRONG HÌNH CÓ PHẢI TÔI KHÔNG?
Có người gửi tôi tấm hình trên mạng
cô gái Sài Gòn áo trắng khăn tang
đi trong Sài Gòn bốn mươi năm cũ
cô gái trong hình có phải tôi không?
Ô hay tại sao tự nhiên tôi nhận
Sài Gòn cả trăm cô gái giống tôi
cả ngàn khăn tang trên đầu góa phụ
góa phụ còn hồng một vệt son môi
Ô hay tại sao tự nhiên tôi chối
Sài Gòn ngày ấy trắng toát khăn tang
những cô trẻ lắm mắt đầm đìa lệ
theo tay ai dắt đi vào nghĩa trang
Sài Gòn bây giờ khói nhang đã tắt
góa phụ ngây thơ tóc đã phai xanh
nhìn lại tấm hình nhận ra cô gái
khẽ gọi
tên cô Trần Thị Chiến Tranh.
Tmt 30/ 04/ 2009
VẪN
VỚI MỘT CHỮ NẾU
Nếu mùa
Xuân có thật
Em sẽ
quên tất cả những mùa khác
Nếu anh
sống sót trở về
Em sẽ
quên như chưa hề có chiến tranh.
_ tmt
2023
NHƯNG RỒI VẪN CỨ MÃI MỘT BÀI THƠ THÁNG 4 Ở ĐÂY
Hôm qua
ở đây là ngày đầu
mùa xuân
tờ lịch rơi xuống
một nụ đào
Tháng Ba sắp hết
Tháng Tư như lệ
sắp trào
Tháng Ba ở quê tôi
năm đó
thành phố nào
thảng thốt
con đường nào chảy
máu
bãi biển nào oan
khiên
Một người lính vừa
tự kết liễu đời mình
Giày trận có linh
hồn
nón trận có khối
óc
áo nhà binh có gói
một trái tim
tất cả phủ trên
anh
thành một bài
“Truy Điệu”
Tháng Ba
người giẫm đạp lên
nhau
chiếc thuyền lao
ra biển
tiếng kêu thất
thanh
tiếng khóc như
cánh chim bay lạc
Tháng Ba
con chạy về tìm Mẹ
Con đi đi
Mẹ già rồi ở lại
Tháng Ba
Chồng chạy về tìm
vợ
Em đi đi
Các con đi đi
Anh là lính
Anh ở lại
Thế là Mẹ mất con
Không biết mất nơi
nào
Thế là vợ mất
chồng
Không biết mất ở
đâu
Tháng Tư
cả nước mất nhau
mất tất cả
không còn gì
Vật ngoài thân
thời gian tìm lại
được
Nhưng mảnh vỡ
trong tim
đã rơi dần từng
mảnh
ngay bước đầu tiên
trên con đường di
tản
không bao giờ tìm
lại được
Người di tản
của bất cứ quốc
gia nào
trái tim cũng mất
dần từng mảnh
nên khi chết
họ chết với một
trái tim không nguyên vẹn
có người chết
với lồng ngực rỗng
họ mất nguyên cả
trái tim
Tháng Ba ở đây vào
Xuân
tháng Tư đầy hoa
đào nở
mỗi đóa hoa như
một giọt nước mắt hồng
rơi xuống trái tim
tôi.
– tmt
(Vào Xuân
3-20-2023)
THƠ VÀ CHỮ TMT:
MỘT SUỐI NGUỒN TƯƠI TRẺ
Kể từ bài thơ đầu tiên, cho tới nay Trần
Mộng Tú đã có hơn nửa thế kỷ làm thơ, viết văn, viết báo. Bước qua tuổi “cổ lai
hy”, chưa có dấu hiệu gì là TMT chậm lại. Vẫn có đó một TMT như một suối
nguồn tươi trẻ, luôn luôn mới mẻ, và tưởng như là bất tận.
Có thể nói cái hay
của thơ của TMT là sự giản dị, không bị gò bó trong nguyên tắc hay một thể thơ nào, thơ của TMT chỉ như "chuyện kể" hoặc ngắn như một "bản tin" và chất thơ là
ngay nơi mỗi con chữ. Không chỉ làm thơ, nhưng TMT còn viết văn – văn của Chị
như một thể thơ xuôi – prose.
Ngày nào mà Trần Mộng Tú còn thở, còn
hiện diện trên thế gian này, vẫn còn những trái ngọt hay cả với những trái đắng
từ “thực phẩm trần gian – les nourritures terrestres” [tên
một tác phẩm thơ xuôi của André Gide, 1897], và Trần Mộng Tú vẫn còn làm thơ, thơ
và chữ chính là hơi thở cuộc sống của Trần Mộng Tú.
Để có thể viết đầy đủ về cuộc đời rất đặc biệt của nhà
thơ Trần Mộng Tú, thật sự phải cần tới một cuốn sách. Cũng nhân đây gợi ý với các bạn trẻ trong
và ngoài nước, đang chuẩn bị cho một luận án văn học, Trần Mộng Tú – đi ra từ chiến
tranh, nhưng lại là “biểu tượng của một nền văn hóa hòa bình”, và chân
dung TMT sẽ là một đề tài
hấp dẫn và phong phú để các bạn trẻ khám phá và dấn thân vào.
NGÔ THẾ VINH
Little Saigon, Fourth of July 2023
Tham Khảo:
1/ Visions of War,
Dreams of Peace. Writing of Women in the Vietnam War. Warner Books, New York 1991
2/ Shrapnel in The Heart.
Letters and Remembrances from the Vietnam Veterans Memorial. Laura Palmer. Vintage
Books, New York 1987.
3/ American Literature Textbook, Glencoe/
McGraw-Hill, A Division of McGraw-Hill Companies, 2000
4/ NPR* Celebrated Military Nurse, Poet
Revealed as a Fraud _ September 30, 2006 https://www.npr.org/2006/09/30/6173681/celebrated-military-nurse-poet-revealed-as-a-fraud
5/ Bình Thủy
1969. Hồi ức Trần Mộng Tú. Mưa Sài Gòn Mưa Seattle. Nxb
Văn Mới, California (2006).
6/ Ba câu hỏi cho Trần Mộng
Tú. Phùng Nguyễn. Da Màu 27/09/2016 https://damau.org/44226/ba-cau-hoi-cho-tran-mong-tu
NGÔ THẾ VINH
Kính mời thưởng thức:
Quà Tặng Trong Chiến Tranh được phổ nhạc bởi bác sĩ nhạc sĩ Phạm Anh Dũng, trình bày bởi Mai Linh Anh Quang, Hoàng Khai Nhan thực hiện video.