Nhà văn Trần Hoài Thư, chủ nhân của Thư Ấn Quán, người phục hồi di
sản văn học miền Nam 1954-1975 đã qua đời ngày 27-5-2024, đúng 1 tháng
sau khi hiền thê của ông, bà Nguyễn Ngọc Yến mất ngày 27-4-2024.
Kệ sách trong buồng ngủ của tôi có:
Thơ miền Nam trong thời chiến:
Gồm 263 nhà thơ miền Nam sáng tác cho chiến tranh
Tập I: 856 trang
Tập II: 741 trang
Tổng cộng 1600 trang giấy
Thơ tự do miền Nam, 660 trang
Tuyển tập Thơ- Ô Cửa
Toàn tập của Trần Hoài Thư, 380 trang.
Tất cả, với chữ ký đề tặng của tác giả.
Khi nhận được Thơ miền Nam trong thời chiến tôi thật sự bàng
hoàng về số thơ viết ra trong chiến tranh của miền Nam sao có thể nhiều
đến như thế. Mỗi người lính, mỗi thân nhân của lính hình như đều là thi
sĩ cả.
Nhờ có cuốn Thơ miền Nam trong thời chiến mà tôi biết được bài thơ Ở rừng U Minh ta không thấy em của
tác giả Nguyễn Tiến Cung (Phạm Duy phổ nhạc). Một bài thơ về cuộc
chiến, nhưng không có máu chảy, không có bom đạn, chỉ có hình ảnh mấy
cây tràm gày như dáng người con gái, và người lính với cây súng ướt
nòng. Bài thơ mà bất cứ lúc nào đọc lại hay nghe ai đó hát cũng làm tôi
chảy nước mắt.
Trần Hoài Thư và hiền thê đã để lại một công trình to tát: bảo tồn di
sản văn học (với đúng ý nghĩa nhất) cho thế hệ Việt Nam lưu vong sau
này hiểu được thế nào là chiến tranh mà người Việt của cả hai miền cùng
gánh chịu.
Đây là một công trình quý báu, một đóng góp giá trị cho những thế hệ
con cháu Việt Nam Cộng Hòa sau này khi muốn tìm hiểu về văn học của các
bậc cha ông trong thời chiến.
Trần Mộng Tú
5-27-2024
**
Dưới đây là bài thơ Trần Mộng Tú viết tặng Trần Hoài Thư khi nhận được những tập sách tác giả gửi tặng.
“THƠ MIỀN NAM TRONG THỜI CHIẾN” (*)
Gửi Trần Hoài Thư
Em úp mặt vào trang giấy trắng
đọc những bài thơ viết giữa chiến tranh
em thương những tình yêu khép mắt
thương những nỗi buồn vàng ngón tay anh
Mỗi trận đánh mang một tên riêng
nhưng nỗi buồn không tên gọi
anh giơ mãi tay ra
không với được hòa bình
vuốt mặt thấy đời mình như rừng đang cháy
những tàn tro
thương tích bật thành thơ
Bây giờ tìm anh biết tìm ở đâu
trên đỉnh Trường Sơn
hay vũng lầy Đồng Tháp
mặt trận đã yên thời gian mục nát
có ai vừa cúi nhặt
được câu thơ
Giải khăn tang mấy mươi năm vàng ố
mấy mươi năm mà vết sẹo còn mưng
mở những trang thơ
rào rào tiếng đạn
bay vào thành phố
như tiếng vỗ cánh của bầy chim ưng
Thơ cắm súng trên mộ phần
người lính trẻ
giầy saut, nón sắt xếp thẳng hàng
thơ vẽ thêm người con gái
hai tay úp mặt
vạt áo nhầu tóc rối dưới khăn tang
Mấy mươi năm bao nhiêu hồn rất mới
đã nhăn nheo theo cuộc chiến hoang tàn
bao đôi mắt sáng ngời vùi dưới đất
trái tim nguyên còn rất đỗi nồng nàn
Mấy mươi năm anh có đời lưu lạc
ở nơi nào cũng cúi xuống nỗi đau
mấy mươi năm em sống đời ngơ ngác
thơ nhặt từng câu
vẫn thấy xót thương nhau
Ôi cuộc chiến đã đi qua
chúng ta mất hết
tình yêu
tuổi trẻ
và những ước mơ
thơ giúp em giữ mãi một điều gì thiêng liêng
không mất được
nhưng cũng không tìm lại được bao giờ.
Tháng 1/2008
Khi nhận được: Thơ miền Nam trong thời chiến, Thư Ấn Quán sưu tập và xuất bản, chủ biên: nhà văn Trần Hoài Thư và bằng hữu.
Người đàn bà trẻ tìm thấy đoạn văn viết ngắn dưới đây trên trang mạng
riêng của Mẹ, bằng tiếng Việt Nam, khi chị vào máy tìm hồ sơ cá nhân
của Mẹ để cung cấp cho “Nhà Già”. Chị đọc tiếng Việt không rành lắm, chữ
hiểu, chữ không, Chị mang đoạn viết sang trang Google để dịch sang
tiếng Anh cho thấu đáo hơn:
Tôi nhớ, cách đây hơn bốn mươi năm, khi bỏ nước ra đi, vốn liếng
tôi mang theo trong túi hành lý có hai trăm ($200.-) Mỹ kim, và gần một
ngàn đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa. Có một tờ 500, một tờ 100 và vài tờ
20, vài tờ 5 đồng, tờ 1 đồng. Số tiền này để lẫn lộn vào nhau trong một
cái phong bì. Cái phong bì nhét vào trong một cái túi vải trong đó có
cuốn Kim Vân Kiều, cuốn Chinh Phụ Ngâm, một cái áo dài, hai bộ quần áo
ngắn, cây son, cái lược. Đó là cái vốn vật chất cho một phụ nữ vừa bước
vào tuổi 30, trên con đường di tản. Cái vốn tinh thần tôi mang theo được
là cha mẹ, Bố 70 tuổi, Mẹ 65.
Bây giờ cha mẹ tôi đã theo nhau qua đời ở tuổi 80. Cái vốn vật
chất tôi mang theo thì những đồng tiền VNCH chỉ còn lại vài tờ 1 đồng
(Chúng thất lạc chứ không phải tôi tiêu mất) hai cuốn sách vẫn còn trên
kệ, chiếc áo dài vẫn giữ trong ngăn kéo, mỗi độ Tết về lại được mang ra,
cầm giơ lên, giũ xuống rồi ướm thử lại vào mình với cả nỗi ngậm ngùi.
Cây son đã bạc màu, cái màu Terracotta ngọt ngào đã khô queo, đặt nhẹ
lên đôi môi (nhưng không tô) ngậm ngùi nhớ lại ngày thật xa xôi đó, ai
đã chọn cho màu son đẹp đến nao lòng, thế này! Nhớ lại kỷ niệm một lần
tôi đi vắng, người yêu tôi tới nhà không gặp, đã cầm một thỏi son trên
bàn phấn của tôi, viết lên mặt gương: “Em đâu rồi?” Tôi về đọc thấy hạnh
phúc đến lịm người. Tôi giữ mấy chữ đó đến cả mấy tháng trên gương, lúc
chùi đi,muốn khóc. Bây giờ mỗi lần soi (trong tưởng tượng) lại chiếc
gương dĩ vãng cái hình ảnh của ba chữ đó vẫn lung linh trong ký ức tôi
và vẫn “muốn khóc”. Thật là may mắn, tôi được trưởng thành trong một thế
hệ chưa có điện thoại cầm tay, ngay cả đến điện thoại bàn, tư gia cũng
hiếm có, vì nếu có,những người yêu nhau làm sao được hưởng những cảm xúc
lãng mạn của mấy chữ viết bằng son môi trên mặt gương soi. Bây giờ vào
những ngày cuối năm, chờ Tết đến, nhìn vào trong gương ở một ngôi nhà
cách quê hương mình cả một đại dương, đôi khi, tôi ngậm ngùi hỏi
khẽ: “Anh đâu rồi?”
Chị ngồi thần người ra khi đọc đoạn văn trên. Đoạn văn này chắc không
phải Mẹ viết cho Bố, vì ngày tháng cả gần 40 năm về trước, câu cuối là:
“Anh đâu rồi?” Bố lúc đó còn sống mà. Mẹ mình có mối tình này trước khi
lấy Bố mình à? Mối tình này như thế đã hơn nửa thế kỷ trôi qua rồi.
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa.
Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh
sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm
cảm.
Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường
đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không
thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của
con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần
trông thấy chị là cụ yên lòng.
Đúng rồi, Chị nhớ có được nghe loáng thoáng trong họ hàng là Mẹ có
một mối tình chết trong chiến tranh trước khi lấy Bố Chị. Chị sinh ra và
trưởng thành ở Mỹ, Bố chị là người bản xứ nên Chị không biết gì về
chiến tranh Việt Nam cả, mặc dù có đại gia đình bên Mẹ là người Việt,
được hưởng nhiều phong tục tập quán của người Việt, Chị vẫn thấy mình là
một người bản xứ hơn là người Việt Nam. Chị tần ngần trước cái màn hình
nhỏ, thấy thương Mẹ quá, Mẹ thân và yêu mình lắm, thế mà chẳng bao giờ
Mẹ kể chuyện “ngày xưa của Mẹ” cho mình nghe. Không biết bây giờ Mẹ còn
đủ minh mẫn để nhớ lại không?
Mấy ngày không ngủ được về cái trang Mẹ viết trong máy điện toán,
Chị muốn làm một việc gì đó cho Mẹ vui và để trí nhớ Mẹ trở lại. Cuối
cùng sau hai tuần lễ Chị nghĩ ra được một cách, và Chị thử xem có giúp
Mẹ tỉnh táo hơn không? Chị lên mạng tìm màu son Terracotta, màu
hồng của đất. Chị tìm mua được một cây son pha giữa màu hồng và màu nâu
nhạt. Khi Chị có thỏi son trên tay, Chị cứ thử đi thử lại trên môi mình
mấy lần, nhìn ngắm cái màu son hồng nhàn nhạt pha nâu, thật nhẹ nhàng
và ấm áp. Chị nghĩ tới mối tình rất xa xưa của hai người còn rất trẻ ở
một đất nước xa xăm nào đó. Rồi mối tình đó bị chết trong chiến tranh….
Bất giác Chị ứa hai hàng nước mắt, thương Mẹ và thương cả người thanh
niên xa lạ nào đó.
Chị vào Viện Dưỡng Lão thăm Mẹ, Chị đưa Mẹ ra ngồi ở chiếc băng trong
vườn hoa của viện. Đợi Mẹ ngồi năm mười phút, hỏi han Mẹ vài câu, chị
lấy trong túi ra thỏi son đặt vào tay Mẹ khẽ nói:
“Me ơi! Con có cái này cho Mẹ.”
Mẹ chị cúi xuống nhìn thỏi son con mới đặt vào tay, chị vội giúp Mẹ
mở nắp rồi vặn cây son lên cho Mẹ nhìn rõ màu hồng nâu nhàn nhạt của
son.
Chị thấy Mẹ mình ngồi im lặng không nói gì, phải đến năm bảy phút sau Mẹ mới hỏi:
– Ai đưa cho con?
Chị bối rối mất mấy giây, rồi cũng nói được:
– Con tìm thấy trong ngăn kéo quần áo cũ của Mẹ.
Mắt Mẹ chị sáng hẳn lên, long lanh như có tra nước vào:
– Thật hả con?
– Còn tốt lắm mẹ ạ.
Chị nói xong, cầm thỏi son thoa nhẹ lên môi Mẹ, màu son hồng nhạt làm
khuôn mặt Mẹ chị trông tươi hẳn lên. Chị thấy Mẹ khẽ nhắm mắt lại, Mẹ
giơ tay nắm chặt bàn tay Chị, hai giọt lệ rất nhỏ nhưng rất long lanh ứa
ra ở khóe mắt Mẹ. Chị vít đầu Mẹ ngả vào vai mình, nước mắt chị cũng ứa
ra.
Một cơn tuyết đầu mùa rơi xuống khi chúng tôi sửa soạn ra đường đến nhà bạn ăn Tân Niên Ất Tỵ
Tuyết rơi như lông ngỗng, như hoa rụng tùng chùm, bám trên nóc xe,
trắng xóa mặt đường và tan dưới lằn bánh xe cán ngang. Hơi lạnh len cả
vào chân tóc. Mùa Đông thật sự đã đến. Mùa Đông bắt đầu ở Tây Bắc nước
Mỹ, hơi lạnh làm người ta yên trí hơn khi nghĩ lại đến những đám cháy
rừng mới xẩy ra không xa nơi mình đang cư trú là bao nhiêu. Lửa và nước
là hai nhu yếu phẩm quan trọng nhất cho con người nhưng cũng là nỗi ám
ảnh đáng sợ, là căn nguyên của tàn phá. Lửa cháy hay nước dâng cao có
thể tàn phá nhanh hơn chiến tranh.
Tuyết xuống! Màu trắng lạnh lùng đó nhưng lại đẹp như những hạt thơ
rơi! Xòe bàn tay ra hứng, tuyết rơi xuống mong manh như những con bướm
trắng, thấy bàn tay mình bỗng dưng thành một bông hoa năm cánh, tuyết
xuống rơi trên vai dịu dàng như cánh tay ai khoác lên vai kéo lại gần
cho thêm thân thiết! Cúi nhìn xuống đôi giày vùi trong tuyết, mỗi bước
đi, quay lại như nhìn thấy dấu thời gian. Ta đã đi bao nhiêu dặm trong
đời này rồi nhỉ? Khi nào thì ngồi xuống phiến đá bên đường, nghỉ chân?
Tuyết xuống từng mỗi bước đi, để lại dấu giầy, nhưng chẳng bao lâu lớp
tuyết mới rơi xuống, phủ lên, không còn gì cho ta quay đầu nhìn lại. Dấu
giầy đã mất, con đường vừa đi qua bây giờ mênh mông như biển trắng xóa
sóng bạc đầu.
Tuyết xuống, mùa Đông đang về: đẹp và lạnh. Người ta không chỉ sưởi
ấm cái lạnh bằng than, lửa, mà người ta còn sưởi ấm mùa đông bằng những
câu Thơ:
Trên bờ vai hạnh phúc
Một chùm tuyết vừa rơi
như chùm hoa rất đẹp
Nở đóa tình tinh khôi -tmt
Tuyết xuống tặng cái lạnh ngọt ngào, một chút run rẩy, một chút lôi
cuốn, một chút Thơ, do dự không dám bước ra ngoài, không dám dẫm chân,
vùi giầy vào cái lớp đá trắng phau và lạnh buốt nhưng lại hao hức muốn
cái lạnh len vào thân thể để được kéo hai vạt áo mùa đông vừa lôi ra từ
trong ngăn tủ cũ, còn đọng hương long não, như còn đọng hơi thở ấm áp
của ai, kỷ niệm được đánh thức dậy ngọt ngào nhưng vẫn làm cay mắt.
Con đường trắng xóa trước mặt, chiếc xe vừa đi vừa hứng những cánh
bướm trắng hàng đoàn bay tới, chạm vào kính xe, tan nhanh như những giọt
lệ pha lê. Đẹp đến nao lòng!
Chàng tung trong gió tuyết lông ngỗng
Em nhặt vào may áo Mỵ Châu
Em quên rắc tuyết trên đường hẹn
Nên kiếp này ta lạc mất nhau -tmt
Kiếp này lạc mất nhau rồi, kiếp sau có tìm thấy nhau không nhỉ, hay chỉ như hoa tuyết chưa tụ đã tan.
Tuyết ơi! Thôi đừng rơi nữa
Nếu đã tụ rồi xin tuyết đừng tan (tmt
Nhưng khi mùa đông tới, lòng ai cũng mong một ngày tuyết đổ, cũng
mong nhìn thấy đất trời như được phủ đường cát trắng, tuyết không vị,
không mùi nhưng khi ta ngậm một bông hoa tuyết vừa từ trời rơi xuống,
vẫn thấy tan trong cổ vị ngọt ngào tinh khiết và hình như đâu đây có
hương thơm của một đóa hoa.
Tuyết rơi còn giữ trong lòng ta kỷ niệm lần đầu được đứng dưới bầu
trời giang hai tay, ngửa mặt hưởng ơn mưa tuyết từ trời rơi xuống. (Một
hình ảnh đáng nhớ của người tỵ nạn đến từ miền nhiệt đới)
Mỗi con người là một đốm lửa nhỏ nhoi, đốt hân hoan và cháy thống khổ. Cha mẹ, anh em ruột thịt, bạn rất thân có yêu thương mình tới đâu cũng không bao giờ thấu hiểu tận cùng cái đốm lửa đó cháy và tàn như thế nào của mỗi phận người. Hạnh phúc và bất hạnh của mỗi người còn nổi trôi theo hoàn cảnh, vận nước, thời cuộc chung của nhân loại.
Cuối cùng, phần đông người ta chỉ có thể dựa vào lòng tin của tín ngưỡng để tự đứng dậy.
Trần Mộng Tú năm 1976.
Khi chúng tôi yêu nhau thì anh mới ra Đại Học Sư Phạm được hơn 1 năm và đang đi dạy học thì bị gọi động viên-khóa 3/68 Thủ Đức. Anh xin phép cha mẹ tôi cho anh được làm hôn thú trước, ngày tháng cưới tính sau vì sợ vào quân đội rồi, xin phép thành hôn sẽ khó khăn. Cha mẹ tôi bằng lòng. Tháng 6/1968 Ba tôi đi cùng tới văn phòng tỉnh, cho phép chúng tôi làm hôn thú. Mấy ngày sau anh đi trình diện nhập ngũ, tôi thật sự lo sợ nhưng không biết phản ứng thế nào.
Chiến tranh vẫn vào thành phố mỗi đêm qua hỏa châu cùng tiếng súng và ban ngày là những lệnh nhập ngũ lan rộng ở các công tư sở. Sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân của Cộng sản vào Huế, những trang báo ngập tràn tin chiến sự, cầm tờ báo lên ngang mặt như ngửi được mùi thuốc súng. Tiếng đại bác đêm đêm vẫn vọng về từ một nơi nào đó và ban ngày thì chiến tranh rải đạn trên những tờ nhật báo. Hàng xóm, người thân, nhà nào cũng có con trai bị gọi nhập ngũ.
Rồi những tiếng gõ cửa chợt đến vào bất cứ giờ nào trong ngày, mở cửa ra, nhìn thấy một người ăn mặc quần áo nhà binh, mặt mũi thất thần, ngập ngừng báo tin: Người con / người chồng của Bà đã tử trận. Tiếng khóc bật lên, cả nhà giao động, người ôm mặt, người ngất xỉu, người chạy đi báo thân nhân…cả khu phố náo loạn… Mang được xác về hay mất xác thì cũng đau đớn ngang nhau.
Chiến tranh đã bước vào nhà mình, vào ngay nhà hàng xóm và đã đổ ập xuống thành phố.
Những tờ nhật báo
mỗi ngày một giống nhau
hôm nay tin địch chết
ngày mai tin ta chết
mẹ già cuối xóm
đi nhận xác con
người vợ trẻ xếp hành trang cho chồng mai đi sớm
tăng thêm quân
tuổi mười tám xếp bút nghiên cầm súng
đào thêm hầm
người chết thiếu chỗ chôn
chung quanh em bỗng thấy
thành phố tắt tiếng cười
chiếc áo em đang mặc mầu xanh
em nhìn thành mầu đỏ
mùi mực in
thành mùi máu tanh hôi
em yếu đuối
em ngơ ngác thất thần
em sợ lắm rồi thây người ngã xuống
Không,
không bao giờ em muốn anh đi
Anh gạt tay em dấn mình vào lửa
mảnh đạn mảnh bom chặn mất đường về
Ngày mai mưa nắng anh không biết
lửa hỏa châu
đốt cháy lời thề. (tmt)
Cung bị gọi nhập ngũ (Khóa 3/1968) Thủ Đức
Thời gian Cung huấn luyện quân sự ở Thủ Đức chúng tôi còn thỉnh thoảng được gặp nhau. Có khi cuối tuần, anh đi theo “xe cơm” ở trong trại ra ngoài, về được 1 đêm, sáng sớm hôm sau tìm taxi về trại. Nhà tôi đến Thủ Đức khoảng 30 cây số. Ba, Mẹ tôi thương lắm! Có khi anh về, gặp mưa ướt hết giầy, áo nhà binh, Ba tôi đưa quần áo của mình cho anh thay, Mẹ tôi phải nói chị giúp việc mang quần áo anh vào trong bếp lửa hong cho khô để ngày mai có áo về trại. Anh được một tối ở lại nhà tôi và được cha mẹ và tôi săn sóc, đêm anh ngủ với Ba tôi trên cái sập gụ giữa nhà. Những lần anh về như thế, chúng tôi được ngồi im lặng bên nhau đến khuya, chỉ cầm tay thôi mà muốn khóc…cũng không hiểu tại sao lại muốn khóc.
Nhưng sáng hôm sau anh đi thì tôi khóc thật, khóc âm thầm một mình sau cánh cửa. Không biết tại sao lại khóc có lẽ vì sơ mà khóc thì đúng hơn. Sợ anh đi rồi đi luôn. Cái sợ đó không lâu biến thành sự thật.
Anh ra Thủ Đức bị chuyển tới Chi Khu Trà Bồng. Một địa danh nghe tên mà ngơ ngác.
Tháng 11/1968 mẹ chồng tôi mang trầu cau, bánh rượu, sang xin làm đám hỏi. (Bà không muốn mất cô con dâu mà con Bà đã yêu quý.) Đám hỏi không có chú rể, nghĩ cũng buồn, nhưng thời chiến mà, làm sao được.
Sau đó anh được chỉ thị về đóng ở Kiên Giang (Rạch Giá). Sau Lễ Phục Sinh, tháng 4/1969 anh xin phép về 1 tuần cưới vợ. (Mọi việc đều do mẹ anh thu xếp), Sau đám cưới, anh trở lại đơn vị, tôi vẫn ở nhà với cha mẹ và gia đình mình, đợi Bộ Giáo Dục cho Cung về đi dạy học lại, mới tính chuyện hai vợ chồng trẻ ra ở riêng.
Nhưng anh không bao giờ trở lại với tôi nữa, ngày 30/7 anh tử trận ngay lần ra trận đầu tiên ở Xã Vĩnh Thanh Vân- Rạch Giá (Kiên Giang).
Nếu tính ngày: Chúng tôi cưới nhau được 3 tháng và ở với nhau được 2 tuần.
Tôi, mẹ chồng và người anh ruột của anh cùng đi Kiên Giang đón xác anh về.
Nhà xác Kiên Giang nằm cạnh bờ sông /Con nước đục lờ đờ pha sắc máu.
Huyệt mộ
Không bao giờ em quên
đường ba trăm cây số
em đi nhận xác anh
với trái tim thống khổ
Không bao giờ em quên
trại lính nghèo xơ xác
nến thắp trên quan tài
nước mắt em mặn chát
Không bao giờ em quên
mẹ già đầu nhuốm bạc
người anh trai đau xót
thương thân mình ngày mai
Không bao giờ em quên
mắt môi anh ngày ấy
mắt nhìn em đắm đuối
môi còn ấm tình đầy
Không bao giờ em quên
trái tim anh lãng mạn
chỉ một bóng hình em
giờ nhận thêm mảnh đạn
Không bao giờ em quên
chiếc quan tài mầu vàng
lá cờ ba sọc đỏ
anh nằm im lìm đó
chẳng một lời sau cùng
Không bao giờ em quên
nghĩa trang ngày hôm đó
nắm đất vun cuối cùng
anh nằm sâu huyệt mộ.
Cung tử trận ngày 30 Tháng 7- 1969 (1)
Thời gian cứ trôi, mây vẫn bay và nước sông vẫn chảy. Tôi khóc cười theo vận nước nổi trôi. Tôi sống với tình yêu của hai bên gia đình: gia đình tôi và gia đình anh.
Tôi đi làm với sự thương quý, bao bọc của Hãng Thông Tấn The Associated Press, họ là những người đã yêu thương nâng đỡ tôi từ khi tôi còn độc thân, lấy chồng rồi lại độc thân. AP là một gia đình thứ hai của tôi, những người bạn Việt và Mỹ ai cũng yêu thương và hỗ trợ tôi qua thăng trầm của cuộc sống. Họ chia sẻ giọt nước mắt và tiếng cười với tôi.
Thế rồi Tháng Tư ập tới, một cơn hồng thủy hỗn mang. Gia đình, bè bạn, sở làm…tất cả đều tan tác như chim lạc bầy.
Tôi bỏ quê hương ra đi theo sự xếp đặt của AP. Cuống cuồng, hỗn loạn. Tôi cố lo cho đại gia đình mình. Tôi không còn lòng dạ nào nghĩ tới ngôi mộ của anh nằm cô đơn trong nghĩa trang. Sau này nghĩ lại tôi cũng ân hận mãi là không kịp đến giã từ anh lần cuối.
Tạ Tình
Hãy tha thứ cho em Không một lời từ tạ Không nụ hôn cuối cùng Trên mộ anh bia đá Hãy tha thứ cho em Không một lời kinh nguyện Không một đóa hoa hồng Không một hàng lệ nến Hãy tha thứ cho em Để rêu phong lối cũ Để mộ chí hoen mờ Để anh sầu trong mộ
Hãy tha thứ cho em Một đi không ngoảnh lại Để sỏi đá mỏi mòn Để cho anh ngóng đợi Hãy tha thứ cho em Núi sông ngàn cách trở Tình đã phụ tình rồi Xin đừng mong ngóng nữa.
tmt- Tháng 4-1975 (2)
Cũng như tất cả những người Việt Nam di tản khác, ai ai cũng mang trong mình những ký ức buồn của kẻ lưu vong. Chúng tôi làm lại đời mình, nhưng làm lại như thế nào cũng không bao giờ quên được ký ức của thời sống trên quê hương mình:
Buồn,vui, tiếng cười và nước mắt, vết thương tháng Tư không bao giờ đóng vẩy, không bao giờ khô. Thỉnh thoảng những người tha hương vẫn cúi xuống nhìn vết thương của mình.
Anh ạ, tháng Tư mềm nắng lụa
Hoa táo, hoa lê nở trắng vườn
Quê nhà biền biệt sau trùng núi
Em mở lòng xem lại vết thương (tmt)
Vết thương chiến tranh, vết thương di tản dù xẩy ra ở bất cứ quốc gia nào, cho bất cứ dân tộc nào cũng là những vết thương khó lành nhất. Mấy chục năm định cư ở xứ người: không bị đói, không bị lạnh, không bị vất vả bản thân, không chạy dưới bom đạn, sao tâm vẫn không thấy hoàn toàn vui, vẫn đau đáu một quê nhà xa lắc, vẫn thấy mất một cái gì quý lắm mà không bao giờ còn lấy lại được và mỗi năm tháng Tư về, thấy mình ngơ ngác đi tìm một cái gì chỉ còn bóng không còn hình.
Để rồi, tất cả như một cuốn phim quay ngược lại thời gian:
Tháng Tư đi vào trong núi
Tìm con ngựa trận năm nào
Yên cương bây giờ mục nát
Hỏi chàng chàng bặt âm hao (tmt)
Tháng Tư 1975- những con người hốt hoảng chạy từ các thành phố, các tỉnh, đổ về Saigon, rồi lại kéo nhau chạy tứ tán ra bến cảng ra phi trường và chạy bất cứ nơi nào có thể chạy. Những sinh linh đáng thương như những con kiến chạy chung quanh miệng chén, chạy một lúc lại trở về chốn cũ. Con mất cha mẹ, vợ chồng mất nhau, anh chị em thất lạc…Mất tất cả như không còn gì để mất.
Nước mắt, máu và những tiếng súng…. Thành phố thân yêu không còn là thành phố mà giống như một miếng mồi khổng lồ cho báo, cho cọp và cả những con chó già xác xơ ở đâu tới, vào giật xé, chiếm đoạt.
Tháng Tư những tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa tuẫn tiết theo thành, đã có những vị chỉ huy, quay súng tự bắn mình… họ không muốn chết dưới tay Cộng Sản Bắc Việt và để cho lính của mình được an tâm di tản với gia đình.
Tháng Tư, các công tư sở, các trường học, bệnh viện, các cửa hàng mua bán lớn nhỏ đóng những cánh cửa thật chặt, nhưng chặt cách mấy cũng bị đập, bị phá vỡ, bị chiếm đoạt…bởi những con người chưa từng được sống trong một “thành phố” thật sự bao giờ. Với những người Cộng Sản miền Bắc từ núi, từ rừng đi ra thì Saigon là một thiên đàng.
Những người quốc gia của Việt Nam Cộng Hòa hơn hai mươi năm trưởng thành xây dựng trong thành phố đó, họ đang bị “giải phóng” bởi những người ở rừng, ở hầm vừa mới chui ra. Những con người nhìn những cuốn sách toàn chữ là chữ, không ích lợi gì ngoài việc dùng nhóm lửa.
Thật tiếc cho một thế hệ không được trưởng thành, được giáo dục bằng đạo đức và bằng tinh hoa của ngôn ngữ.
Những người Quốc Gia bỏ chạy chỉ lo thoát thân, họ không cần đem theo tài sản vật chất vì họ đã có cái vốn văn học, vốn giáo dục 20 năm thẩm thấu vào đời sống họ. Vật chất mất đi họ có thể kiếm lại. Vốn liếng giáo dục và học vấn không ai lấy ra khỏi được ở con người Quốc Gia. Có mất mát vật chất nhưng không đáng để phải đau lòng. Mất thân nhân, ruột thịt, bạn hữu và mất cả một nền văn hóa tốt đẹp mới đáng kể.
Tháng Tư và những tháng tiếp theo của năm 1975, bao nhiêu người bị bắt, bị nhốt, bị tù đầy, bị đuổi ra khỏi chính căn nhà của họ đã gây dựng từ bao nhiêu năm tháng để rồi chết trong những bìa rừng, trong những cái trại có cái tên hoa mỹ là “cải tạo”. Bao nhiêu chiếc thuyền ra cửa biển không phải chỉ một tháng Tư mà những năm tháng kế tiếp đó. Thuyền chìm, thuyền cứ chìm, cứ mất tích, cứ bị hải tặc, người vẫn bỏ đi.
Bỏ đi vì chính quyền Cộng Sản mới đã tước đoạt đến tận cùng những gì thuộc về người Quốc Gia…Người Cộng Sản dùng chữ “giải phóng” hoa mỹ thay cho chữ “chiếm đoạt” Họ chiếm tất cả nhà cửa, tài sản vật chất của người quốc gia, nhưng họ không bao giờ chiếm được di sản văn hóa đạo đức của Việt Nam Cộng Hòa.
Tháng Tư 1975 và những năm tháng kế tiếp sau này đã cả triệu người của Việt Nam Cộng Hòa bỏ nước ra đi, hiện sống rải rác trên thế giới.
Họ bỏ đi vì không muốn con cháu họ lớn lên trong xã hội Cộng Sản. Họ đi, mang theo cái di sản văn hóa tốt đẹp mà họ đã được hấp thụ truyền xuống con cháu họ ở hải ngoại. Thế hệ nối tiếp đã làm được nhiều điều tốt đẹp trên những quê hương họ di trú. Tháng Tư của 50 năm sau, những bậc phụ huynh một phần đã qua đời theo tuổi tác, những người còn lại không còn trẻ nữa, cúi nhìn xuống đời mình, lòng vẫn nặng tình quê.
Tháng Tư, tôi bỏ nước ra đi dắt theo cha mẹ già và cuốn Chinh Phụ Ngâm, cuốn Kiều trong túi hành trang. Tôi đến Camp Pendleton vào một buổi tối ngày 21 tháng 4 năm 1975.
Bài thơ viết ở Pendleton, California
(Viết tặng những người di tản, ngày đầu đến trại Tỵ Nạn)
Khi tôi đi một mặt trời vừa rụng
Một kinh thành vừa sụp đổ sau lưng
Một quê hương vừa thở nhịp cuối cùng
Một dân tộc vừa ly khai dân tộc
Khi tôi đến mặt trăng xanh vừa mọc
Từng đoàn người già trẻ níu ôm nhau
Ai gọi tên ai tiếng nấc nghẹn ngào
Lều vừa dựng đứng chờ hồn thất lạc
Khi tôi đi một cuộc tình vừa rạn
Những đóa tường vi gục khóc trong bình
Nụ hôn đau trao vội vã người tình
Gói trong aó một cành hoa nước mắt
Khi tôi đến… Ôi! một tôi đổi khác
Áo khăn người nghe lạ tủi trên thân
Chăn chiếu người đắp mãi vẫn lạnh căm
Ly nước ngọt trên môi nghe muối mặn
Khi tôi đi cả dòng sông đứng lặng
Những vai cầu khuỵu xuống buổi tiễn đưa
Nón bài thơ thả trên dòng nghinh lũ
Sóng tang thương nức nở mấy cho vừa.
Ngày 21 Tháng Tư/1975
Viết tiếp sau 20 năm
Hai mươi năm sau mở trang thơ cũ
Giấy ố vàng…vẫn chẩy một dòng sông
Tôi úp mặt vào thơ tìm tiếng sóng
Hồn cỏ lau. Ôi! bãi nhớ mênh mông
Tháng Tư/1995
Viết tiếp sau 45 năm
Bốn mươi lăm năm nhìn bàn tay mở
Thời gian trôi vớt được giọt nào không
Dòng sông nào chẩy hoài trong ký ức
Cửu Long ơi sao sóng cạn giữa lòng.
Tháng Tư/2020
Viết tiếp vào năm 50
Sợi tóc nào vừa nhuộm
Vẫn trắng với thời gian
Giọt nước mắt nào tan
Vẫn đầm đìa muối mặn
Quê hương còn…mà mất
Hận thù vẫn không vơi
Lá cờ nào xé đôi
Cũng hai màu vàng đỏ
Màu đỏ là của máu
Màu vàng là của da
Một mai khi nằm xuống
Cờ nào phủ thịt da
Một mai khi nhắm mắt
Ta có xót thương Ta
Tháng Tư /2025
Tôi đã đi qua 50 năm ở quê người, mỗi năm đều có 1 Tháng Tư, như vậy là tôi đã cõng trên lưng 50 Tháng Tư. Chao ơi là nặng!
Bao nhiêu giọt lệ bao nhiêu tiếng cười, (Giọt lệ luôn đi trước tiếng cười), bao nhiêu đổi thay trong cuộc sống. Từ độc thân, lập gia đình, có con, có cháu ngoại, cháu nội…Từ môi thắm, má hồng thành da mồi, tóc bạc và buồn hơn nữa là càng nhiều tuổi và không còn bận mưu sinh, càng thấy như mình vẫn chạm tay vào một vết thương không bao giờ đóng vảy.
Cha mẹ và một vài người thân ruột thịt, vài người bạn quý đã qua đời. Thân xác họ nằm trong đất hay lênh đênh trên bọt sóng, tất cả đều để lại tiếng dội trong lồng ngực gầy, để khi nào lòng quê chợt động, tôi mang ra tự vỗ về tôi.
Hình như có sống xa quê, người ta mới biết cái tình quê hương nó sâu đậm đến thế nào trong trái tim mình. Nhất là thức giấc vào một đêm tháng Tư thì khó tìm lại được giấc ngủ. Bao nhiêu hình ảnh đau buồn thi nhau kéo về, mình không khóc nhưng sao lòng im ắng thế, như nghe được tiếng thở của đêm và hình như tháng Tư đang khóc.
Em nằm im lặng nghe đêm thở
Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm
Anh ạ, em nghe tháng Tư khóc
Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Tôi tự nói với mình: 50 năm rồi đấy, sao mình có thể sống ở ngoài quê hương lâu đến thế nhỉ! Ngày xưa còn nhỏ, cứ nghe thấy người bỏ làng, bỏ quê đi làm ăn xa, họ phải mau mau trở về nguyên quán khi tuổi đời đã cao, họ muốn được sống những ngày cuối đời ở quê nhà, và khi chết, được chôn cất trong làng trong quê mình. Bây giờ mình không chỉ xa quê, xa làng, mình còn xa cả nước. Mình đã rơi vào câu nói: “Sống nơi đất khách/Thác chôn quê người”
Có người bạn nói: “Đây là quê hương thứ hai của mình.” Thật vậy sao!
Tôi chỉ nghe nói Quê Nội, Quê Ngoại, nhưng không có nghĩa là hai tổ quốc, hai quê hương, vì làm sao một con người mà có tới hai quê? Chao ôi! Sao mà khó thế!
50 năm cũng cho tôi nhiều người bạn mới thành những người bạn lâu năm, những người bạn Việt Nam cùng chia xẻ được những ký ức về nguồn cội, về văn chương, văn hóa của quê nhà, để đôi khi cùng nhau ngậm ngùi hay hạnh phúc. Những người bạn khác quốc tịch, khác văn hóa trên mảnh đất Hợp Chủng này đã cho tôi học được rất nhiều điều: từ kiến thức và lòng nhân ái của họ, để thấu hiểu câu: “Cũng nhân tâm ấy há thiên lý nào” của người xưa để lại.
Năm mươi năm đôi khi nghĩ lại giật mình, sao mà dài thế, nhưng đôi khi lại thấy ngắn như một tiếng thở dài.
Anh ạ tháng Tư sương mỏng lắm
Sao em nhìn mãi chẳng thấy quê
Hay sương thành lệ tra vào mắt
Mờ khuất trong em mọi nẻo về. (tmt)
Tháng Tư khi nghĩ về quê nhà, nghĩ về một Saigon thân thương với bao nhiêu kỷ niệm đầu đời, từ thuở còn đi học cho đến lúc trưởng thành, nhưng hình ảnh sâu đậm nhất để lại trong tâm vẫn là hình ảnh pho tượng người lính VNCH trước Nghĩa Trang Quân Đội. Người ta có thể kéo pho tương xuống, đập tan tành nhưng không đập được linh hồn của pho tượng đó trong tâm khảm của người quân, dân Việt Nam Cộng Hòa.
Tháng Tư của 50 năm sau. Chúng tôi, những người sống còn trong cuộc chiến “máu đỏ da vàng” này, luôn luôn kính trọng và ghi ơn những tướng, tá, những người lính trong hơn 20 năm của VNCH đã vị quốc vong thân, và những quân nhân còn sống sót lưu vong đến ngày hôm nay, họ là những pho tượng không bao giờ vỡ dưới thời gian hay bất cứ bạo lực nào.
Trần Mộng Tú- Tháng Tư-1975-2025
Chi tiết chuyến đi đón xác ghi lại ở bài: Bình Thủy 1969
Ngày xửa ngày xưa có ông vua muốn mở mang bờ cõi Ông dùng quyền lực mình đi xâm chiếm cả những vùng đất thật xa
Trên con đường ông đi người và gia cầm chạy xao xác những con gà không mang nổi quả trứng của mình vừa đi vừa đánh rớt trứng vỡ tan trên mặt đất chẳng còn sót lại bao nhiêu nên bây giờ anh có tới thăm em đừng mang hoa mang bánh mang cho em một con gà để em nuôi lấy trứng
Ngày xửa ngày xưa có Ông vua muốn mở mang bờ cõi Ông dùng quyền lực mình cất tiếng đòi mua đòi chiếm những đất nước yếu thế hơn mình Bây giờ không phải đàn gà mất trứng mà là những con người mất một quê hương
Căn nhà anh còn phòng nào cho người đến trọ và anh có mở lòng ra ôm những vết thương.