Wednesday, November 26, 2025

VĨNH BIỆT TRẦN HOÀI THƯ

 

 
Nhà văn, nhà thơ Trần Hoài Thư. Tranh: Đinh Cường

Nhà văn Trần Hoài Thư, chủ nhân của Thư Ấn Quán, người phục hồi di sản văn học miền Nam 1954-1975 đã qua đời ngày 27-5-2024, đúng 1 tháng sau khi hiền thê của ông, bà Nguyễn Ngọc Yến mất ngày 27-4-2024.

Kệ sách trong buồng ngủ của tôi có: 

  • Thơ miền Nam trong thời chiến:

Gồm 263 nhà thơ miền Nam sáng tác cho chiến tranh

Tập I:  856 trang

Tập II: 741 trang

Tổng cộng 1600 trang giấy

  • Thơ tự do miền Nam, 660 trang
  • Tuyển tập Thơ- Ô Cửa

Toàn tập của Trần Hoài Thư, 380 trang.

Tất cả, với chữ ký đề tặng của tác giả.

Khi nhận được Thơ miền Nam trong thời chiến tôi thật sự bàng hoàng về số thơ viết ra trong chiến tranh của miền Nam sao có thể nhiều đến như thế. Mỗi người lính, mỗi thân nhân của lính hình như đều là thi sĩ cả. 

Nhờ có cuốn Thơ miền Nam trong thời chiến mà tôi biết được bài thơ Ở rừng U Minh ta không thấy em của tác giả Nguyễn Tiến Cung (Phạm Duy phổ nhạc). Một bài thơ về cuộc chiến, nhưng không có máu chảy, không có bom đạn, chỉ có hình ảnh mấy cây tràm gày như dáng người con gái, và người lính với cây súng ướt nòng. Bài thơ mà bất cứ lúc nào đọc lại hay nghe ai đó hát cũng làm tôi chảy nước mắt. 

Trần Hoài Thư và hiền thê đã để lại một công trình to tát: bảo tồn di sản văn học (với đúng ý nghĩa nhất) cho thế hệ Việt Nam lưu vong sau này hiểu được thế nào là chiến tranh mà người Việt của cả hai miền cùng gánh chịu.

Đây là một công trình quý báu, một đóng góp giá trị cho những thế hệ con cháu Việt Nam Cộng Hòa sau này khi muốn tìm hiểu về văn học của các bậc cha ông trong thời chiến.

Trần Mộng Tú                                                               

5-27-2024

**

Dưới đây là bài thơ Trần Mộng Tú viết tặng Trần Hoài Thư khi nhận được những tập sách tác giả gửi tặng.

“THƠ MIỀN NAM TRONG THỜI CHIẾN” (*)

Gửi Trần Hoài Thư 

Em úp mặt vào trang giấy trắng

đọc những bài thơ viết giữa chiến tranh

em thương những tình yêu khép mắt

thương những nỗi buồn vàng ngón tay anh

Mỗi trận đánh mang một tên riêng 

nhưng nỗi buồn không tên gọi

anh giơ mãi tay ra 

không với được hòa bình

vuốt mặt thấy đời mình như rừng đang cháy 

những tàn tro 

thương tích bật thành thơ

Bây giờ tìm anh biết tìm ở đâu

trên đỉnh Trường Sơn

hay vũng lầy Đồng Tháp

mặt trận đã yên thời gian mục nát 

có ai vừa cúi nhặt 

được câu thơ 

Giải khăn tang mấy mươi năm vàng ố 

mấy mươi năm mà vết sẹo còn mưng

mở những trang thơ 

rào rào tiếng đạn 

bay vào thành phố 

như tiếng vỗ cánh của bầy chim ưng

Thơ cắm súng trên mộ phần 

người lính trẻ

giầy saut, nón sắt xếp thẳng hàng

thơ vẽ thêm người con gái 

hai tay úp mặt 

vạt áo nhầu tóc rối dưới khăn tang

Mấy mươi năm bao nhiêu hồn rất mới

đã nhăn nheo theo cuộc chiến hoang tàn

bao đôi mắt sáng ngời vùi dưới đất 

trái tim nguyên còn rất đỗi nồng nàn

Mấy mươi năm anh có đời lưu lạc

ở nơi nào cũng cúi xuống nỗi đau

mấy mươi năm em sống đời ngơ ngác

thơ nhặt từng câu 

vẫn thấy xót thương nhau

Ôi cuộc chiến đã đi qua 

chúng ta mất hết

tình yêu 

tuổi trẻ 

và những ước mơ

thơ giúp em giữ mãi một điều gì thiêng liêng 

không mất được

nhưng cũng không tìm lại được bao giờ.

Tháng 1/2008

Khi nhận được: Thơ miền Nam trong thời chiến, Thư Ấn Quán sưu tập và xuất bản, chủ biên: nhà văn Trần Hoài Thư và bằng hữu.

MẦU SON CŨ

 

(Để nhớ lại một màu son)

Người đàn bà trẻ tìm thấy đoạn văn viết ngắn dưới đây trên trang mạng riêng của Mẹ, bằng tiếng Việt Nam, khi chị vào máy tìm hồ sơ cá nhân của Mẹ để cung cấp cho “Nhà Già”. Chị đọc tiếng Việt không rành lắm, chữ hiểu, chữ không, Chị mang đoạn viết sang trang Google để dịch sang tiếng Anh cho thấu đáo hơn:

Tôi nhớ, cách đây hơn bốn mươi năm, khi bỏ nước ra đi, vốn liếng tôi mang theo trong túi hành lý có hai trăm ($200.-) Mỹ kim, và gần một ngàn đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa. Có một tờ 500, một tờ 100 và vài tờ 20, vài tờ 5 đồng, tờ 1 đồng. Số tiền này để lẫn lộn vào nhau trong một cái phong bì. Cái phong bì nhét vào trong một cái túi vải trong đó có cuốn Kim Vân Kiều, cuốn Chinh Phụ Ngâm, một cái áo dài, hai bộ quần áo ngắn, cây son, cái lược. Đó là cái vốn vật chất cho một phụ nữ vừa bước vào tuổi 30, trên con đường di tản. Cái vốn tinh thần tôi mang theo được là cha mẹ, Bố 70 tuổi, Mẹ 65.

Bây giờ cha mẹ tôi đã theo nhau qua đời ở tuổi 80. Cái vốn vật chất tôi mang theo thì những đồng tiền VNCH chỉ còn lại vài tờ 1 đồng (Chúng thất lạc chứ không phải tôi tiêu mất) hai cuốn sách vẫn còn trên kệ, chiếc áo dài vẫn giữ trong ngăn kéo, mỗi độ Tết về lại được mang ra, cầm giơ lên, giũ xuống rồi ướm thử lại vào mình với cả nỗi ngậm ngùi. Cây son đã bạc màu, cái màu Terracotta ngọt ngào đã khô queo, đặt nhẹ lên đôi môi (nhưng không tô) ngậm ngùi nhớ lại ngày thật xa xôi đó, ai đã chọn cho màu son đẹp đến nao lòng, thế này! Nhớ lại kỷ niệm một lần tôi đi vắng, người yêu tôi tới nhà không gặp, đã cầm một thỏi son trên bàn phấn của tôi, viết lên mặt gương: “Em đâu rồi?” Tôi về đọc thấy hạnh phúc đến lịm người. Tôi giữ mấy chữ đó đến cả mấy tháng trên gương, lúc chùi đi,muốn khóc. Bây giờ mỗi lần soi (trong tưởng tượng) lại chiếc gương dĩ vãng cái hình ảnh của ba chữ đó vẫn lung linh trong ký ức tôi và vẫn “muốn khóc”. Thật là may mắn, tôi được trưởng thành trong một thế hệ chưa có điện thoại cầm tay, ngay cả đến điện thoại bàn, tư gia cũng hiếm có, vì nếu có,những người yêu nhau làm sao được hưởng những cảm xúc lãng mạn của mấy chữ viết bằng son môi trên mặt gương soi. Bây giờ vào những ngày cuối năm, chờ Tết đến, nhìn vào trong gương ở một ngôi nhà cách quê hương mình cả một đại dương, đôi khi, tôi ngậm ngùi hỏi khẽ: “Anh đâu rồi?”

Chị ngồi thần người ra khi đọc đoạn văn trên. Đoạn văn này chắc không phải Mẹ viết cho Bố, vì ngày tháng cả gần 40 năm về trước, câu cuối là: “Anh đâu rồi?” Bố lúc đó còn sống mà. Mẹ mình có mối tình này trước khi lấy Bố mình à? Mối tình này như thế đã hơn nửa thế kỷ trôi qua rồi.

Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa.

Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm.

 Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.

Đúng rồi, Chị nhớ có được nghe loáng thoáng trong họ hàng là Mẹ có một mối tình chết trong chiến tranh trước khi lấy Bố Chị. Chị sinh ra và trưởng thành ở Mỹ, Bố chị là người bản xứ nên Chị không biết gì về chiến tranh Việt Nam cả, mặc dù có đại gia đình bên Mẹ là người Việt, được hưởng nhiều phong tục tập quán của người Việt, Chị vẫn thấy mình là một người bản xứ hơn là người Việt Nam. Chị tần ngần trước cái màn hình nhỏ, thấy thương Mẹ quá, Mẹ thân và yêu mình lắm, thế mà chẳng bao giờ Mẹ kể chuyện “ngày xưa của Mẹ” cho mình nghe. Không biết bây giờ Mẹ còn đủ minh mẫn để nhớ lại không?

 Mấy ngày không ngủ được về cái trang Mẹ viết trong máy điện toán, Chị muốn làm một việc gì đó cho Mẹ vui và để trí nhớ Mẹ trở lại. Cuối cùng sau hai tuần lễ Chị nghĩ ra được một cách, và Chị thử xem có giúp Mẹ tỉnh táo hơn không? Chị lên mạng tìm màu son Terracotta, màu hồng của đất. Chị tìm mua được một cây son pha giữa màu hồng và màu nâu nhạt. Khi Chị có thỏi son trên tay, Chị cứ thử đi thử lại trên môi mình mấy lần, nhìn ngắm cái màu son hồng nhàn nhạt pha nâu, thật nhẹ nhàng và ấm áp. Chị nghĩ tới mối tình rất xa xưa của hai người còn rất trẻ ở một đất nước xa xăm nào đó. Rồi mối tình đó bị chết trong chiến tranh…. Bất giác Chị ứa hai hàng nước mắt, thương Mẹ và thương cả người thanh niên xa lạ nào đó.

Chị vào Viện Dưỡng Lão thăm Mẹ, Chị đưa Mẹ ra ngồi ở chiếc băng trong vườn hoa của viện. Đợi Mẹ ngồi năm mười phút, hỏi han Mẹ vài câu, chị lấy trong túi ra thỏi son đặt vào tay Mẹ khẽ nói:

“Me ơi! Con có cái này cho Mẹ.” 

Mẹ chị cúi xuống nhìn thỏi son con mới đặt vào tay, chị vội giúp Mẹ mở nắp rồi vặn cây son lên cho Mẹ nhìn rõ màu hồng nâu nhàn nhạt của son. 

Chị thấy Mẹ mình ngồi im lặng không nói gì, phải đến năm bảy phút sau Mẹ mới hỏi:

– Ai đưa cho con? 

Chị bối rối mất mấy giây, rồi cũng nói được: 

– Con tìm thấy trong ngăn kéo quần áo cũ của Mẹ.

Mắt Mẹ chị sáng hẳn lên, long lanh như có tra nước vào:

– Thật hả con?

– Còn tốt lắm mẹ ạ.

Chị nói xong, cầm thỏi son thoa nhẹ lên môi Mẹ, màu son hồng nhạt làm khuôn mặt Mẹ chị trông tươi hẳn lên. Chị thấy Mẹ khẽ nhắm mắt lại, Mẹ giơ tay nắm chặt bàn tay Chị, hai giọt lệ rất nhỏ nhưng rất long lanh ứa ra ở khóe mắt Mẹ. Chị vít đầu Mẹ ngả vào vai mình, nước mắt chị cũng ứa ra.

Buổi chiều đang xuống ở chung quanh hai người.

Trần Mộng Tú 

Tháng 4-2025

TUYẾT ĐẦU MÙA

 Một cơn tuyết đầu mùa rơi xuống khi chúng tôi sửa soạn ra đường đến nhà bạn ăn Tân Niên Ất Tỵ

Tuyết rơi như lông ngỗng, như hoa rụng tùng chùm, bám trên nóc xe, trắng xóa mặt đường và tan dưới lằn bánh xe cán ngang. Hơi lạnh len cả vào chân tóc. Mùa Đông thật sự đã đến. Mùa Đông bắt đầu ở Tây Bắc nước Mỹ, hơi lạnh làm người ta yên trí hơn khi nghĩ lại đến những đám cháy rừng mới xẩy ra không xa nơi mình đang cư trú là bao nhiêu. Lửa và nước là hai nhu yếu phẩm quan trọng nhất cho con người nhưng cũng là nỗi ám ảnh đáng sợ, là căn nguyên của tàn phá. Lửa cháy hay nước dâng cao có thể tàn phá nhanh hơn chiến tranh.

Tuyết xuống! Màu trắng lạnh lùng đó nhưng lại đẹp như những hạt thơ rơi! Xòe bàn tay ra hứng, tuyết rơi xuống mong manh như những con bướm trắng, thấy bàn tay mình bỗng dưng thành một bông hoa năm cánh, tuyết xuống rơi trên vai dịu dàng như cánh tay ai khoác lên vai kéo lại gần cho thêm thân thiết! Cúi nhìn xuống đôi giày vùi trong tuyết, mỗi bước đi, quay lại như nhìn thấy dấu thời gian. Ta đã đi bao nhiêu dặm trong đời này rồi nhỉ? Khi nào thì ngồi xuống phiến đá bên đường, nghỉ chân? Tuyết xuống từng mỗi bước đi, để lại dấu giầy, nhưng chẳng bao lâu lớp tuyết mới rơi xuống, phủ lên, không còn gì cho ta quay đầu nhìn lại. Dấu giầy đã mất, con đường vừa đi qua bây giờ mênh mông như biển trắng xóa sóng bạc đầu.

Tuyết xuống, mùa Đông đang về: đẹp và lạnh. Người ta không chỉ sưởi ấm cái lạnh bằng than, lửa, mà người ta còn sưởi ấm mùa đông bằng những câu Thơ:

Trên bờ vai hạnh phúc

Một chùm tuyết vừa rơi 

như chùm hoa rất đẹp

Nở đóa tình tinh khôi -tmt

Tuyết xuống tặng cái lạnh ngọt ngào, một chút run rẩy, một chút lôi cuốn, một chút Thơ, do dự không dám bước ra ngoài, không dám dẫm chân, vùi giầy vào cái lớp đá trắng phau và lạnh buốt nhưng lại hao hức muốn cái lạnh len vào thân thể để được kéo hai vạt áo mùa đông vừa lôi ra từ trong ngăn tủ cũ, còn đọng hương long não, như còn đọng hơi thở ấm áp của ai, kỷ niệm được đánh thức dậy ngọt ngào nhưng vẫn làm cay mắt.

Con đường trắng xóa trước mặt, chiếc xe vừa đi vừa hứng những cánh bướm trắng hàng đoàn bay tới, chạm vào kính xe, tan nhanh như những giọt lệ pha lê. Đẹp đến nao lòng!

Chàng tung trong gió tuyết lông ngỗng

Em nhặt vào may áo Mỵ Châu

Em quên rắc tuyết trên đường hẹn

Nên kiếp này ta lạc mất nhau -tmt

Kiếp này lạc mất nhau rồi, kiếp sau có tìm thấy nhau không nhỉ, hay chỉ như hoa tuyết chưa tụ đã tan.

Tuyết ơi! Thôi đừng rơi nữa

Nếu đã tụ rồi xin tuyết đừng tan (tmt

Nhưng khi mùa đông tới, lòng ai cũng mong một ngày tuyết đổ, cũng mong nhìn thấy đất trời như được phủ đường cát trắng, tuyết không vị, không mùi nhưng khi ta ngậm một bông hoa tuyết vừa từ trời rơi xuống, vẫn thấy tan trong cổ vị ngọt ngào tinh khiết và hình như đâu đây có hương thơm của một đóa hoa.

Tuyết rơi còn giữ trong lòng ta kỷ niệm lần đầu được đứng dưới bầu trời giang hai tay, ngửa mặt hưởng ơn mưa tuyết từ trời rơi xuống. (Một hình ảnh đáng nhớ của người tỵ nạn đến từ miền nhiệt đới) 

Vòng tay ôm một chùm hoa tuyết

Nghe nỗi thâm ân của đất trời (tmt)

Trần Mộng Tú

Ngày Tuyết đầu mùa ở Seattle. Tháng 2, 2025