Tuesday, October 14, 2014

THEO CÁ VỀ NGUỒN

Cuối tháng chín đầu tháng mười hàng năm khi mây trắng từng đám phiêu du trên vòm trời xanh biếc, gió thu bắt đầu rủ nhau vào thành phố, khi lá phong đổi màu như gấm vắt trên những rặng phong. Từng đàn cá Hồi (Salmon) từ biển trôi theo dòng nước ngọt tìm về nơi chúng đã được sinh ra. Sự trở về của những con cá là đề tài của bao nhiêu bài thơ, bao nhiêu bài văn. Chỉ cần cúi nhìn đàn cá chen chúc nhau trên dòng nước cạn, là đủ thôi thúc “lòng thần hôn” (*) của biết bao nhiêu người sống chung quanh những cửa sông, những dòng suối của vùng Tây Bắc Mỹ và Canada.

Những người bỏ xứ ra đi lập nghiệp ở một nơi chốn khác, nhìn đàn cá về nguồn không sao tránh khỏi một thoáng bâng khuâng, xúc động. Ta và cá nào có khác chi nhau, cá về nguồn được sao ta lại đứng đây cám cảnh.

Người đàn ông bỗng động lòng tưởng nhớ đến nguồn cội của mình. Năm nay anh nhất định làm một chuyến “Về nguồn” như cá. Anh rủ vợ:

-         Mình năm nay không đi ra ngoài nước Mỹ mà đi ba tiểu bang trong nước Mỹ: Minnesota và Wisconsin để thăm họ hàng hai bên nội, ngoại của tôi, những người đã già, còn sống và tổ tiên đã qua đời. Nhân thể tôi thăm mộ của “My first teacher” ở Iowa.

Hai vợ chồng trước tiên bay từ Seattle đến phi trường Minneapolis, thuộc bang Minnesota, rồi từ đó thuê xe lái tới thành phố Rochester thăm người cô bên nội 85 tuổi. Cô Harriet, đã đến 15 năm chúng tôi mới gặp lại cô.

Cô sống một mình trong ngôi nhà, có ba phòng ngủ nhỏ với con mèo Ricochet và bao nhiêu là sách. Kệ sách đóng ngay vào tường và kệ sách ở tất cả các nơi trong phòng. Sách đi từ ngoài buồng khách, buồng ăn, vào buồng ngủ, xuống bếp. Đủ loại sách: Từ Điển và sách cũ trên kệ, tiểu thuyết mới trên bàn, tạp chí cập nhật về môi sinh trên trái đất, về sức khỏe người già, thì tìm thấy trong buồng tắm v.v…

Với số tuổi 85, cô vẫn mỗi ngày lái xe đi mua một tờ báo, cô nói: mình không nên nhận báo giao tới nhà, phải mỗi ngày đi mua để có cơ hội ra đường. Ngay những ngày đông tuyết, cô cũng thuê người đến đón cô đi mua báo và đi chợ. Cô mua nhật báo để cập nhật tin tức và chơi ô chữ.


Cô Harriett, Tú và Frank

Cô vẫn chơi đàn dương cầm ở nhà thờ vào cuối tuần và chơi giúp vui thiện nguyện ở các nhà già khi được mời. Con trai và con gái cô ở cách đó hai, ba tiếng lái xe. Cô chỉ gặp họ trong những ngày lễ, tết, hoặc khi cô cảm cúm.

Biết chúng tôi sắp đến, cô để cửa không khóa và ngồi vào đàn sẵn, chúng tôi vừa tắp xe vào lề trước nhà đã nghe tiếng đàn của cô vọng ra (có chụp hình cô ngồi chơi đàn, nhưng tiếc là tấm hình bị tối quá.) Cô đón chúng tôi bằng những nốt nhạc và bữa ăn trưa nhẹ. Chúng tôi mướn khách sạn gần nhà cô nên trong ba ngày lưu lại chúng tôi đón đưa cô để cô hướng dẫn thăm thành phố. Chúng tôi dành tất cả thời gian cho cô.

Ở chơi với cô ba ngày, chúng tôi học được bao nhiêu bài học của người già ở một mình trên đất Mỹ. Cô rất vui, thoải mái với cuộc sống đơn lẻ từ 10 năm nay, sau khi chú qua đời. Cô không hề nghĩ các con cô bất hiếu khi không ở ngay cạnh cô. Cô không đòi hỏi gì ở con cả. Chúng có đời riêng của chúng. Khi con, cháu, đến thăm cô vui, khi không có chúng cô tìm cái vui của riêng mình. Cô chơi đàn cho mình và cho những người già, yếu hơn mình thưởng thức; đến tiệm ăn quen thuộc, thân thiện với người bồi bàn.

Nhưng thân cận nhất với cô là con mèo Ricochet. Cô đặt tên cho nó là Ricochet (Tiếng Pháp có nghĩa là rebound) vì khi cô xin nó ở Humane Society về , nó cứ chạy húc đầu vào tường, rồi lại bật ra, húc vào. Nó bị nhốt quá lâu trong cái chuồng chật hẹp, nên không quen với một không gian rộng. Phải mất cả mấy tuần  nó mới từ từ đi chậm lại. Cô bảo nó nói cả ngày với cô, đôi khi cô phải tháo cái máy trợ thính lắp ở tai ra để không nghe nó nói nữa. Cô yêu nó lắm, cô tâm sự: cô chỉ muốn chết sau nó, vì nếu cô chết trước nó phải dọn đến nhà khác nó sẽ nhớ cô lắm, mà nếu nó phải cho vào lại Humane Society còn tội nữa.

Rochester, nơi cô ở có bệnh xá Mayo Clinic. Một trong 10 bệnh viện nổi tiếng nhất của Mỹ về chuyên trị Ung Thư. Là một bệnh viện chuyên đón nhận những bệnh nhân mắc những bệnh hiểm nghèo đã bị những nơi khác bó tay từ chối. Đến đây họ có nhiều cơ may được chữa khỏi. Mayo Clinic còn là Bệnh Viện Nhi Đồng tốt nhất trên nước Mỹ.

Cô nói đùa với chúng tôi là cô ở đây, có bệnh viện tốt quá, khó mà chết được. Cô hy vọng sẽ gặp lại chúng tôi mười năm sau nữa.

Cô ôm chúng tôi thật chặt khi từ giã làm lòng tôi sầu như trái chín sắp rụng.

Từ giã cô, chúng tôi trả xe hơi, bắt đầu một cuộc hành trình khác bằng xe bus qua những thành phố khác nhau ở Wisconsin. Tiểu bang này là quê ngoại và cũng là quê nội của anh. Ông bà cố nội anh chôn cất tại đây. Đến đời ông nội và cha anh mới dọn về sống ở Montana.

Trước khi bắt đầu cuộc hành trình này, anh đã lên trên mạng tìm tài liệu nguồn gốc (Family Tree), sau đó liên lạc bằng thư, điện thoại. Những người còn sống trong họ đã giúp anh rất nhiều trong việc tìm nghĩa trang của hai bên nội, ngoại và ngôi nhà của ông cố nội anh ở Water Town.

Ở thành phố Greendale chúng tôi gặp hai người cùng có chung một ông ngoại với mẹ anh, hai người em họ của mẹ anh. Cả hai người này kém mẹ anh khá nhiều tuổi  mà mẹ anh đã mất cả hai mươi năm rồi, năm nay cô Kate mới 80 tuổi và cô Rose Mary 85 tuổi. Hai bà là hai chị em ruột, chờ sẵn chúng tôi ở phòng khách, cùng với một phụ nữ trẻ, Shannon, là con gái cô Rose Mary. Cả hai bà cùng mừng rỡ vì được gặp cháu và dâu của dòng họ mình.

Bao nhiêu hình ảnh úa mờ được mang ra cho nhận diện. Tôi thấy sự xúc động trong ánh mắt, trong tiếng cười của mọi người, khi họ nhìn nhau, khi họ nói:

-          Hình này giống cụ cố, hình kia giống bà ngoại.

Họ nhắc lại cho người cháu xa xăm mới gặp lần đầu, những kỷ niệm họ có với mẹ anh. Rồi sau đó hai bà lại mang ra hai cái phong bì thật to, giới thiệu hình ảnh của gia đình mình hiện tại.

Tôi ngồi lọt thỏn trong cái love seat , nhìn người này, nghe người kia, rồi nhìn xuống cả mấy chục tấm hình cũ kỹ đã bạc màu, lại nhìn sang mấy chục tấm hình mới đầy mầu sắc, với những khuôn mặt trẻ trung, sống động và con nít mới ba bốn tuổi.

Tôi nhắm khẽ mắt lại, nhìn thấy thời gian trôi như những đám mây trắng mùa thu, thấy lá thay màu, thấy những con cá mẹ chết đi, những cá con sinh ra, trôi theo biển, rồi lại trở về… Làm nên một dòng họ… Biến mất, rồi lại hiện hữu.

 Có một cái gì rất mơ hồ trong không gian làm mũi tôi cay cay, mi mắt tôi nặng nặng.

Chúng tôi đi ăn trưa với nhau. Trong lúc ăn, tôi ngồi cạnh cô Kate, bà hỏi tôi là người nước nào. Khi biết tôi là người Việt Nam, bà nheo nheo cặp mắt, như nhìn tôi cho rõ rồi nói một câu như một lời hỏi:

-         Xa lắm nhỉ!

-         Vâng……xa lắm!

Xa lắm!.... Tôi cũng đang nghĩ như bà. Xa như thế đó, và lạ như thế này, mà sao những người chung quanh tôi, hiện tại đang có một sợi giây vô hình quấn chung quanh. Cá Hồi khi từ đại dương tìm về sông hồ cũ có hoang mang những phút đầu thả thân trong một vùng nước vừa xa lạ vừa thân quen, hay không?

 Chúng tôi chia tay, hẹn gặp lại.

Tôi hy vọng là sẽ gặp lại, nếu không phải hai người dì họ này, thì sẽ gặp con cháu của hai bà. Những người cùng trang lứa, chung với chồng tôi một ông cố ngoại.


Tú, Dì Rose Mary, Frank, Dì Kate và Shannon.

Lại trên đường rong ruổi như cá về nguồn. Chúng tôi đến thành phố Horcon cũng thuộc bang Wisconsin, anh tìm gặp một phụ nữ khác bằng tuổi anh, cũng thuộc họ bên mẹ, tên chị là Sue, là con của một bà dì khác đã qua đời. Anh và Sue cùng có chung một ông cố ngoại. Chồng của Sue là Jim, Mayor của thành phố Horcon, nay đã về hưu. Hai vợ chồng nhất định giữ chúng tôi ở lại một đêm.

Họ rất vui vì anh đã đi tìm gặp họ. Không bao giờ Sue nghĩ ở tuổi ngoài 60, chị mới gặp một người trong thân tộc mà trước đây chị không hề biết tới. Chị nói, khi nhận được phôn của anh, chị vừa ngạc nhiên vừa xúc động, cả tuần nay chỉ mong cho đến ngày hẹn.

Từ giã Sue, chúng tôi tới thăm căn nhà xa xưa của cụ cố Harlow Pease (đệ nhất) tại địa chỉ 700 Clyman Street ở Water Town (ngôi nhà này xây từ năm 1860.) Từ khi cụ cố còn là một Luật Sư độc thân, cụ đã ở Water Town (1854). Khi cụ lập gia đình thì xây ngôi nhà này và sống trong ngôi nhà này cho đến khi cụ qua đời 1907.

Nhà hai tầng, có nhà ngang cho người giúp việc và có cả chuồng cho ngựa (như garage bây giờ) ở phía sau nhà. Ông Bà cố đều qua đời cũng tại ngôi nhà này. 

Ngôi nhà đã nhiều lần đổi chủ, sau khi ông nội của anh, cũng là một Luật sư, Harlow Pease (đệ nhị) di chuyển đến Montana lập nghiệp. (Đời cha anh, cụ ông Harlow Pease (Đệ tam) không theo ngành luật nữa, cụ thích canh nông, cụ học về Agriculture and Dairy Industry và cụ có một nông trại hơn 3000 mẫu ở Montana.)
Hiện ngôi nhà của cụ cố Pease ở Water Town đang treo biển bán, chúng tôi tới không đúng lúc mở cửa nên không được xem phía trong ngôi nhà.

Tôi đứng nhìn ngôi nhà hai tầng, sơn trắng, các cánh  cửa màu xanh lá cây thẫm, trên một thửa đất khá rộng, hình dung ra hình ảnh một gia đình có liên hệ mật thiết máu mủ với chồng mình từng sống ở đây. Tôi nghĩ là anh cảm động lắm. Anh đi vòng quanh ngôi nhà đến mấy lần. Ngó qua những khung kính cửa sổ, rồi xuống khu nhà ngang và chuồng ngựa. Chúng tôi có chụp mấy tấm ảnh của ngôi nhà này.


Tôi nói lời từ giã ngôi nhà, chúng tôi lên đường tìm đến nghĩa trang Mount Olivet Cemetery của thành phố Milwaukee, Wisconsin.

Chúng tôi ghé tiệm hoa trước khi ra nghĩa trang. Anh nói, không biết mình phải mua mấy chậu hoa, vì mình không rõ có bao nhiêu ngôi mộ của dòng họ Pease, bao nhiêu ngôi mộ của dòng họ Dutton. Tôi đề nghị không mua hoa chậu, mà nên mua hai bó hoa cẩm chướng đỏ, rồi mình chia ra mỗi mộ vài cành. Hoa cẩm chướng lâu tàn, và trời sắp vào thu nên không nóng lắm. Hy vọng hoa tươi được vài ngày.

Chúng tôi tìm được năm bia mộ của dòng họ Pease: Ông bà Cố, ông bà nội, các bà cô, ông chú. Có hai người chết rất trẻ. Bốn ngôi thuộc về dòng Dutton: Ông bà cố, ông bà ngoại, ông cậu, bà dì, v.v… Tôi chia số hoa ra, mỗi mộ được ba, bốn cành.

Đặt những cành hoa mong manh in những cánh tròn mầu đỏ trên những tấm bia đá trắng, có khắc những hàng tên tôi đã được nghe anh nhắc đến nhiều lần. Tôi bâng khuâng tự hỏi: Những người nằm dưới đó, có biết tôi là ai không nhỉ? Có ngỡ ngàng khi nhìn lên thấy một phụ nữ Á Đông, lạ hoắc, nhỏ xíu, đang loay hoay đặt hoa vào tay mình. Các bậc tổ tiên đó có đưa tay ra đón nhận cả hoa lẫn người không?


Tác giả và ông bà cố ngoại bên chồng ở Milwaukee, Wisconsin.

Một cơn gió thoảng qua, mấy hạt mưa bụi lất phất, một chút không gian ươn ướt trên vai.

Tôi ở đâu mà tôi đến đây
Ngày xưa ai đứng ở nơi này
Giọt mưa trời khóc ngàn năm trước
Sao còn ướt trên lưng bàn tay. (tmt)

Những người nằm dưới đó, là tổ tiên của chồng tôi. Xương da, máu thịt anh một phần nào tạo nên từ họ. Anh lại truyền xuống, chia ra từ thân thể mình cho các con anh. Anh là cha của những đứa con tôi sanh ra. Tôi cũng đem một phần máu thịt tôi được hưởng từ tổ tiên tôi chia cho chúng.

Tôi đoán là những bông hoa tôi đặt trên những phần mộ hôm nay hương thơm đã thấm vào lòng đất. Tổ tiên anh đã chấp nhận tôi như tôi đang vòng tay ôm họ vào lòng cùng hương thơm từ những đóa hoa.

Cá Hồi ở biển tìm về nguồn, theo mùi hương cũ của dòng nước ngọt. Con người tìm về nguồn theo sự xúc động của trái tim cũ và sự thay đổi mới của vạn vật giữa đất trời.

Tấc lòng thành đó nhẹ như mây mùa thu và nồng nàn như sắc lá.
  
(*) Lòng thần hôn- Hôn định thần tỉnh: là buổi hôm, buổi mai săn sóc cha mẹ. Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn-Kiều
10/10/2014