Saturday, October 31, 2015

Giải Mây Trôi




















Một mai tôi chết rồi sao nữa
mây vẫn bay và nước vẫn xuôi
cây xanh vẫn cứ xanh màu mãi
hay có thay màu như tóc tôi

Trái đất sẽ trăm ngàn khác biệt
mỗi ngày người lạ lẫm nhìn nhau
chuyến xe thiên cổ lăn vô hướng
về hướng nào cũng chẳng còn tôi

Đứa cháu năm xưa rồi sẽ lớn
nói cười thông thái hay dại khờ
người đi bên cạnh bằng xương thịt
hay tình nhân là con rô bô
bàn tay nắm có truyền hơi ấm
hay một mảnh nhôm bật tiếng cười

Một mai tôi chết rồi sao nữa
người có dọn lên ở với trời
có ăn có uống toàn không khí
miệng người có ngậm giải mây trôi

Mặt đất rồi chẳng còn ai ở
cũng chẳng còn ai mơ thiên đường
ai cũng sống trên trăm năm tuổi
theo mảnh tinh hà bay muôn phương

Người sẽ bay bay trong không gian
người như một đốm lửa không tàn
ngơ ngác hỏi mình là ai nhỉ
ta trong tinh cầu hay áo quan.


Tháng 10/31/2015

Friday, October 30, 2015

Trăng Hoa


Nhìn đâu cũng một màu hoa
Bóng nào cũng tưởng như là bóng trăng



There is nothing you can see that is not a flower
there is nothing you can think that is not the moon.

Matsuo Basho

Wednesday, October 14, 2015

Mẹ, Con và Hoa Cúc




 Con và hoa cúc vàng
vào nghĩa trang thăm Mẹ
dưới những hàng cây phong
cả hai cùng lặng lẽ

Lá phong ôi lá phong
hé những đôi môi đỏ
mở những đôi mắt vàng
nghĩa trang thơm mùi mật

Gió thu ôi gió thu
nghe rung hồn hoa cúc
con cúi xuống mộ bia
tháng mười rưng rưng lệ

không gian im lặng quá
đất đang thở phải không
cả con và hoa cúc
cùng đọc kinh thì thầm

con đốt một nén nhang
nghe hồn mình cháy đỏ
ôi tàn tro nhỏ nhoi
bay về đâu theo gió

Mẹ đang thức hay ngủ
có nghe thu vừa sang
hoa cúc về trước mộ
gọi tên Mẹ dịu dàng

Mẹ đã bước ra đây
ngồi bên con một lúc
cả con và hoa cúc
cùng được Mẹ cầm tay.

Tháng 10/14/2015

Saturday, October 10, 2015

THỜI TỴ NẠN TUỔI LƯU VONG




Con cá đá Xiêm mua từ tháng hai, chết một tuần nay rồi. Như vậy là từ khi về nhà tôi, nó sống được 7 tháng và nó đã được giữ vai chính trong truyện “Mùa Phấn Hoa Anh Túc” của tôi.

Người bán cá bảo nó có thể sống lâu hơn nữa cơ. Nhưng một tuần đi xa nhà, trước khi đi tôi quên thay nước, khi về thấy nó bơi uể oải trong bình nước đục tôi biết ngay là nó bị bệnh trong nước bẩn rồi. Tôi vội thay nước và nhớ thay thường xuyên. Nó sống, nhưng cái giải đuôi như lụa của nó không uốn lượn phất phơ nữa. Nó bơi lừ đừ, cái đuôi thỉnh thoảng mới đưa nhè nhẹ, như một ông lão đi chậm chạp, cầm cái quạt giấy, thỉnh thoảng mới phất phơ. Tôi biết là nó sắp sửa phải vào Hospice rồi. Cuối cùng, một buổi sáng nó nằm im dưới đáy bình, trên mấy cái lá rong xanh như một người bình thản đặt đầu trên gối lụa.

Tôi đem nó ra ngoài vườn, bới sơ dưới gốc cây Mộc Lan một hố nhỏ bằng cái chén ăn cơm, cho nó nằm vào, lấp đất lên. Cái thân bé nhỏ mong manh của nó chỉ cần mấy hôm sẽ tan vào đất.

Cái bếp của tôi tự nhiên vắng ngắt, im lặng mặc dù Biga (tên hai đứa bé đặt cho cá) trước đây chẳng bao giờ cất tiếng hát. Tôi đang nghĩ không biết sẽ trả lời hai đứa cháu ngoại thế nào khi chúng sang chơi, hỏi "Biga đâu?" Một tuần không có Biga tôi không có bạn trong bếp, cái bình thủy tinh trong suốt nơi tôi cho vào đó một cụm thủy trúc nhỏ có Biga bơi bơi nay chỉ còn nhìn thấy đám rễ vàng hoe. Nhà của Biga hay được để giữa cái bàn ăn nhỏ trong bếp này, tôi thường vừa nấu ăn vừa thỉnh thoảng ngắm nghía. Nhất là buổi sáng, một mình trong cái bếp yên tĩnh, vừa ngồi nhâm nhi cà phê vừa hỏi chuyện Biga vài ba câu, vừa nghe chim hót trên cây mộc lan ngoài vườn, đôi khi tôi nhớ đến câu thơ hay. Xuân gần tàn / Hoa tràn lệ / Con mắt cá rưng rưng. Đó là một vần thơ Hài Cú của Basho. Tôi đã đọc cho Biga và tôi cùng nghe.

Đối với tôi những con vật be bé hiền lành hay những loài hoa cỏ nho nhỏ, nhất là những loại nhắc đến quê nhà, rất cần thiết, tôi không thiếu chúng nó lâu được. Sáng nay tôi ra Pet Shop dán mũi vào mấy cái chậu cá vàng, nhìn mãi, biết là mình không mua được vì nhà không có hồ cá (lý do không biết đặt máy lọc nước và thay nước) lại dán mắt vào mấy cái hộp nhựa nhỏ đựng riêng rẽ từng con cá đá. Loại này không thể hai con sống chung một bồn với nhau được, khi cả hai cùng phái. Chúng nó sẽ đá nhau tới chết, Fighting Fish mà. Đó là lý do tại sao Biga phải sống cô đơn.

Tôi thấy con cá với cái đuôi màu đỏ có nhãn là Rose petal  khá đẹp nhưng giá tới hai mươi đồng. Hôm trước tôi mua Biga có bẩy đồng. Đắt quá! Tự nhiên tôi không muốn nuôi cá nữa, có lẽ tôi vẫn còn quyến luyến với Biga, nên lấy cớ đắt rẻ, vì chưa muốn con cá khác thay thế nó. Tôi lang thang ra chỗ Ếch Phi Châu. A, mấy con ếch này từ Phi Châu sang mà sao nó không đen, da nó có màu kem. Tôi hỏi mua hai con. Anh chàng bán hàng hỏi:
- Bà có hồ nước ấm không? Chúng cần ở trong nước bẩy mươi độ.
-  Tôi không có.
-  Như thế thì đừng mua.
-  Tôi không có hồ ấm, nhưng tôi sẽ cho nước ấm mỗi ngày và tôi sẽ để nó ở trong bếp nơi tôi nấu ăn. Nếu cần, tôi sẽ đặt đèn cho nó cả ngày.
Anh ta nhìn tôi với cặp mắt không mấy thiện cảm, tôi lờ đi, nói:
     -  Anh lấy cho tôi hai con.
Anh ta miễn cưỡng mang cái bao ni-lon lại vớt hai con ếch to bằng hai con dế dũi cho vào, đưa cho tôi với câu nói:
-  Đáng nhẽ bà không có hồ ấm tôi không bán, vì giống này ở Phi Châu chỉ quen nóng thôi.
Tôi thấy anh ta khó chịu nên trả lời nhẹ nhàng.
-  Anh đừng lo tôi ở xứ nóng sang đây, tôi cũng phải tập quen với cái lạnh. Hai con ếch này sẽ có ngày chúng bắt tôi cho thêm đá vào nước đấy.
Anh ta hừ nhẹ một tiếng trong họng, đưa bịch cá cho tôi không nói thêm một câu. Tôi lờ đi như không biết, vẫn cám ơn ngọt ngào.

Tôi mang ngay hai anh chàng Phi Châu về. Cái nhà của Biga bây giờ chỉ còn cây thủy trúc nhỏ. Dọn hai chàng này vào không được. Ếch cần có cái sàn rộng hơn. Tôi lại chạy đi mua một cái bình hình chữ nhật, ra vườn tìm ba hòn đá, cần một hòn mỏng, để làm nóc, tôi biết ếch thích leo trèo và thích có hang. Tôi kiếm được một miếng gạch vỡ, rửa sạch tất cả, xếp thành hình cái hang nhỏ trong đáy bình. Đổ nước âm ấm, thả hai con ếch vào, đứng ngắm:

Ao cũ / Con ếch nhẩy vào / Vang tiếng nước xao.

Hai con ếch dọn vào nhà mới không phải ao cũ, nhưng được nghe ngay thơ Basho, chúng thật là may mắn.

Chúng may mắn hay tôi may mắn. Tôi nhớ mùa hè năm ngoái, tôi mua được một cụm bèo Nhật ở một nhà bán cây kiểng Mỹ. Khi nó nở một bông hoa tím, tôi hạnh phúc đến bàng hoàng như mang được cả quê hương đến nơi này. Bao nhiêu câu hát về hoa Lục Bình theo nhau chạy về trong trí nhớ. Thế mới biết cái hồn viễn xứ mạnh thật. Khi sống xa quê những vật nhỏ bé, tầm thường nào mang hình ảnh quê nhà đều có tác dụng rất mạnh với mình.

Hai con ếch Phi Châu này không hiểu tại sao da không đen, chắc chúng đã mấy đời lai giống. Tôi nhớ mấy năm về trước tôi mua được một con da đen bóng nó sống với tôi được sáu bẩy tháng mới mất, nó mất cũng chỉ vì tôi vắng nhà mười ngày, không ai săn sóc nó, nếu không chắc nó còn sống lâu hơn. Tôi thích mấy con ếch vì nó làm tôi nhớ đến mấy con ếch nhỏ màu xanh biếc như cánh bèo ở ao quê nhà vào thời thơ ấu. Con ếch đó to và đẹp hơn loại ếch kiểng Phi Châu này nhiều.

Đôi khi tôi tự hỏi, mấy con cá mang nhãn hiệu của nơi xuất xứ thật ra đã bao nhiêu đời được gây giống bên ngoài quê hương gốc của nó. Hai con ếch Phi Châu này chắc chắn từ đời ông sơ, ông cố nó sinh ra ở Phi Châu không phải đời nó, nên nước da mới trắng nhợt thế này.

Tôi nghĩ đến thân phận di dân. Con người cũng vậy thôi, chỉ đời cha, đời ông mới được người cùng quốc gia ở quê nhà gọi là “kiều bào” nhưng đời cháu, đời chắt, họ đánh rơi ngay hai chữ đó trên mỗi bước họ đi. Họ nhận (hay họ chính là) người của quốc gia họ sinh ra và trưởng thành.

 Điều đó tự nhiên đến nỗi chẳng ai còn nhớ ra để mà buồn, vì các ông bà cố và cha mẹ, họ hàng xa xưa của họ đã qua đời hết rồi. Đôi khi họ có lúc tìm lại, như tìm một sự kiện để làm một bản văn hay một luận án ra trường. Xong việc đó, mọi việc lại cất vào ngăn lưu trữ, họ lại sống cái đời đang sống. Tôi nhớ hồi mới sang Mỹ, gặp một phụ nữ Á đông ở chỗ làm. Hỏi chị người nước nào, chị thản nhiên nói “người Mỹ”. Chị sinh ra ở Mỹ, trưởng thành ở Mỹ, ông nội và bố chị cũng sinh ra ở Mỹ. Như vậy ông cố chị là người đầu tiên tới đây, đến chị là đời thứ bốn, cho nên chị không nói được tiếng Hoa. Chị nói, cả gia đình tôi, sống theo tập quán của người Mỹ, chúng tôi thưởng thức những ngày lễ hội của Trung Hoa như tất cả những người Mỹ khác mà thôi, không ai quan tâm đến mình phải là người Hoa nữa. Hồi đó mới sang, còn trẻ, tôi nghe ngạc nhiên lắm, nghĩ thầm trong đầu “Đúng là mất gốc”.

Bây giờ lớn tuổi, cách suy nghĩ cũng khác đi, miền tin vào năm tháng thấy mong manh quá. Thử tưởng tượng năm 2100, tám mươi lăm năm nữa, đứa bé Syrian được sinh ra ở Ý, ở Đức, ở Mỹ, vào năm 2015 lúc đó là một người già 85 tuổi, chắc sẽ nói về Syria như kể truyện cổ tích cho con cháu nghe mà thôi. Và sẽ bắt đầu bằng: Ngày xa xưa gần một thế kỷ, ông cố của ta đã tới đây….

Phải chăng, chúng ta sống trong thời đại của tỵ nạn và tuổi của lưu vong.(*)

Tôi nhìn hai con ếch mang nhãn Phi Châu với màu da vàng nhợt nhạt, nhớ đến con cá Xiêm, bất giác nghĩ đến phận mình, phận của bao nhiêu con người nữa, khác chi như cá, như ếch, như bông hoa lục bình trôi từ sông nước quê nhà tạt vào một xứ sở xa xăm.

Tháng 9/16/201



-Theo báo cáo năm 2014, của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc (UNHCR) vào thời điểm cuối năm 2013 có hơn 51 triệu người đang chạy trốn hoặc bị trục xuất, trong đó có hơn 33 triệu người đàn ông, phụ nữ và trẻ em di tản trong khu vực các quốc gia riêng của họ ("người tản cư nội địa").Wikipedia. 

(*) We live in the age of the refugee, the age of the exile.-Ariel Dorfman






Wednesday, October 7, 2015

BÊN NỘI




Ngày các con còn nhỏ, mỗi năm đến dịp hè là cả gia đình lên xe, lái từ Seattle về nội ở Montana. Thời gian lái xe là mười tiếng, nhưng chúng tôi vừa đi, vừa nghỉ dọc đường ăn uống. Khởi hành chín giờ sáng tới nhà ông bà nội là mười giờ tối, tổng cộng mười ba tiếng. Ngày tháng trôi qua, ông bà nội theo nhau qua đời, các con khôn lớn, lập gia đình, không còn ở với cha mẹ nữa, chúng tôi không còn về bên nội mỗi năm.

Vài ba năm tôi mới về thăm bà chị chồng và mồ mả các cụ bên chồng Nhưng gần như mỗi năm, chồng tôi hay lấy một cuối tuần dài ba, bốn ngày, về thăm người chị độc thân của mình. Đã ba năm rồi tôi không về Helenna, Montana thăm chị và mồ mả các cụ, trong lòng cũng hơi áy náy phận dâu con, nên năm nay anh vừa rủ là tôi sốt sắng nhận lời. Chúng tôi không có nhiều ngày nên dùng máy bay chứ không lái xe.

Chương trình của chúng tôi tùy vào thời khóa biểu làm việc của chị nên khi đến Helena, chơi với chị một ngày xong chúng tôi thuê xe đi Yellowstone hai ngày, rồi quay lại Helena chơi với chị thêm hai ngày nữa trước khi bay về Seattle. Con đường từ Helena đến Yellowstone rất ngoạn mục. Cuối tháng chín, trời bắt đầu vào thu, xe như đi giữa một bức tranh mà tôi nghĩ chỉ có thợ trời mới vẽ như thế.
Trên vòm trời một màu xanh lam mênh mông với những cụm mây trắng chụm vào rồi lại tan ra trôi trôi vô định, bên dưới trời mây đó núi trùng trùng điệp điệp nối thành một vòng cung màu xanh xám, cho ta có cảm tưởng con đường như chui ra từ núi. Bên dưới núi là những cánh rừng cây bạt ngàn. Tháng này rừng cây không còn nguyên thủy một bức tranh vẽ rừng thông với những vòm màu xanh nữa, mà thỉnh thoảng trong bức tranh xanh ngọc đó hình như họa sĩ vừa lỡ tay đánh đổ một thùng sơn màu vàng diệp, rồi bỏ đi đâu, quên không sửa lại bức tranh. Màu vàng đổ tung tóe suốt con đường du khách đi qua. Đó là những bụi Bạch Dương (Poplar) được trồng lẫn với thông mà vào mùa khác nhìn từ xa không phân biệt được. Bây giờ Bạch Dương như các cô thiếu nữ, từ trong rừng bước ra khoe cái áo mới vừa được mùa thu nhuộm cho một mảng vàng lấp lánh trên vai. Bên dưới những cánh rừng đó là những cánh đồng cỏ alfalfa (một loại cỏ đóng thành bánh, dành riêng cho bò vào mùa đông.) vẫn xanh biếc mênh mông, có từng đàn bò đen đủng đỉnh ăn cỏ, thỉnh thoảng lại gặp những con antelopes, một loại động vật hoang dã (Wild animal) đẹp như hươu, lông trắng, khoang nâu, dáng như con dê, chấm phá vẻ đẹp cho cánh đồng alfalfa. Chưa hết, ngoài bìa cùng của cánh đồng cỏ, sát với mặt đường xe chạy là những bụi sage màu bàng bạc pha tím, chạy dọc theo bánh xe lăn, nếu ta ngừng xe lại bứt một nắm lá vò trong tay, mùi hương thơm của lá sage nồng nàn như mùi oải hương thấm vào các ngón tay cho đến lúc mặt trời lặn vẫn còn đằm hương.

Cứ thế xe đi trong núi, núi trong cây và cây trong mùa thu, chúng tôi đi về phía Yellowstone. Từ thành phố Helena, qua Norris, chúng tôi dừng lại ở suối nước nóng lộ thiên đặt giữa một khu đất không lớn lắm nhưng sát bìa rừng, vào ngâm mình trong một cái hồ mà cứ 1 phút có 60 gallons nước ở suối thiên nhiên (hot sping) đưa vào. Trong nước thiên nhiên cung cấp: Calcium, silicalithium, ngoài ra không có bất cứ một hóa chất nào cho thêm vào, vì sự luân lưu rộng rãi của nước suối như vậy không cần đến những chất sát trùng nhân tạo. Tại đây người ta bán rượu chát, thức ăn nhẹ nấu bằng rau trồng ngay trong mảnh đất cạnh suối nước nóng, những lá rau không có phân bón và thuốc trừ sâu. Thiên nhiên với con người là một trong không gian và trong mảnh đất hiền lành này.

Chúng tôi ghé Butte để thăm lại ngôi nhà của ông bà nội anh, nơi bố anh lớn lên, hiện được coi là một “Historical house”, trường Đại Học học của bố anh, trường Trung Học của anh và Bệnh Viện St.James nơi anh ra đời.  Đi qua mỗi nơi nghe chồng tôi nhắc đến từng mẩu chuyện nho nhỏ vui buồn thời niên thiếu, tôi thấy trái tim mình như có cánh cửa nhỏ, mở ra đón vào một chút nắng, chút gió, chút hương, vừa xa lạ vừa ấm áp thân quen. Nơi đây, trong thời điểm này, tôi nhìn thấy những cây cột đèn thành phố có treo những lẵng hoa và bên dưới lẵng hoa là một tấm bảng nhỏ màu vàng có kẻ tên một quân nhân nào đó, tôi đọc: Lieutenant James T. Tuckman
Sargent Dick Boyds….Dấu chỉ thành phố đang chờ ngày trở về (nếu họ có trở về!) của những đứa con đang làm nghĩa vụ ở một chiến trường nào đó. Nghe lòng mình rưng rưng. Cầu xin một sự trở về bình an cho họ.

Chúng tôi đi xem đài tưởng niệm của 168 người thợ mỏ chết trong lúc đang làm việc vào năm 1917. Phần đông là những người của các quốc gia Âu Châu tới (Cuối Đệ Nhất Thế Chiến, bên Âu Châu không có việc làm, người dân kéo nhau sang Mỹ làm đủ các nghề.) Montana đã có một thời là nơi người ta đổ tới lao mình vào các mỏ đồng, mỏ vàng và lúc nào cũng thế: thợ mỏ là những người thiệt thòi nhất, vì họ chỉ là kẻ làm công cho những chủ nhân ông quyền thế. Những mỏ vàng, mỏ đồng là chính kế đến là những hỗn hợp kim loại và đá quý. Bạn sẽ không ngạc nhiên khi thấy những con đường ở Butte mang tên: Crystal, Copper, Granite, Silver, Gold, Cora Terra, Diamond, v.v..

Sau khi ngao du ở Yellowstone hai ngày, nhìn dấu tích của thiên nhiên ghi lại những kỳ bí, vẻ đẹp và vết tích của động đất để lại trên mặt đất, chúng tôi lại quay trở về Helena để tiếp tục đi thăm mộ cha mẹ, họ hàng bên nội. Thăm thành phố có ngôi nhà thờ đẹp đến nao lòng St. Helena Cathedral. Người dân ở đây được biết ngôi giáo đường này được xây bởi tiền của những chủ nhân ông khai thác mỏ vàng, mỏ đồng tại tiểu bang.( Mỏ vàng ở Montana được khám phá lần đầu vào năm 1852)

Chúng tôi lái xe đi lòng vòng trong phố, ngắm nghía những ngôi nhà xây theo kiểu Victorian House (Thời đại hoàng kim của thành phố này vào năm 1908, Helena được coi là một trong những thành phố có nhiều triệu phú nhất thế giới). Chồng tôi sẽ đi gặp lại người bạn thời trung học, một trong những người vẫn gắn bó ở hết đời với Montana. Chú ruột anh, chị anh cũng thế, không hề muốn sống ngoài Montana, không hề nghĩ mình cần đi du lịch ngoài thành phố của mình. Đối với họ, chẳng nơi nào đẹp bằng quê mình. Bố anh cũng là một người trong số đó. Sau khi anh học xong Trung Học, cụ cũng tìm đủ cách để anh phải ở lại học ở Đại Học quê nhà, nhưng anh đã bỏ đến tận Chicago và học ở đó (Loyola University of Chicago).

Sau khi chúng tôi kết hôn, ở California 12 năm, có năm hai cụ đã thử dọn đến ở gần chúng tôi. Hai cụ thuê một căn chung cư rất gần con, ở được một tháng hai cụ lại dọn về Montana. Bố chồng tôi nói: “Không ở được con ạ, thành phố nhiều xe cộ và nhiều tiếng động, lại không có hàng xóm.” Hai cụ quay về quê nhà sống cho đến cuối đời và gửi xương thịt trong đất đá của Montana.

Người ta đang chuyền tai nhau là tối rằm trung thu này sẽ có một mặt trăng ngoạn mục, đỏ như máu và sáng như lửa. Chúng tôi từ Yellowstone quay lại Helena để kịp đón “Mặt trăng nhuộm máu” cùng với bà chị. Vì nếu lỡ vầng trăng này làm sao chúng tôi nối được tuổi mình, để chờ thêm 18 năm nữa.

Helena-Montana, tháng 9/2015