Friday, May 29, 2015

NHẬT BẢN du ký

 
Ở Kyoto
Kyoto, cố đô của nước Nhật với tổng số 2000 ngôi chùa và đền cho cả hai tôn giáo: đạo Phật và Thần đạo. Cũng như các cung điện, vườn thượng uyển và các công trình kiến trúc còn nguyên vẹn, Kyoto là một trong những thành phố được bảo tồn hoàn hảo nhất của Nhật Bản.

Đền chùa cũ xưa nhiều, nên thỉnh thoảng trong một khu xóm hay trên một con đường lại gặp một ngôi chùa gỗ, mái ngói cũ kỹ chen giữa những building hay giữa những ngôi nhà kiểu mới, làm mình liên tưởng đến một vài khu phố cổ ở Hà Nội.
Trong bốn ngày ở Kyoto, chúng tôi không thể đi hết thắng cảnh của thành phố cổ này, chỉ cố thu xếp thời gian thăm vài nơi mang dấu vết lịch sử và nổi tiếng thơ mộng.
Ngõ Xưa
Buổi chiều vừa xuống, chúng tôi, năm người, dắt nhau đi trong những con hẻm rất nhỏ, nhỏ như những con hẻm ở phố cổ Hà Nội. Đó là khu GionPontochò, ngay trong trung tâm thành phố.
Điều khác biệt giữa hai đô thị Hà Nội và Kyoto là những con hẻm ở Kyoto rất sạch, đèn sáng đủ để nhìn xuống chân không có một cọng rác, một vật bẩn vứt trên lối đi. Hàng quán hai bên là những quán ăn, có hoặc không có âm nhạc. Những Bar với đèn lồng đỏ và các thiếu nữ mặc kimono đứng đón khách.
Nơi đây chính là thế giới ngày xa xưa của những nàng Geisha xứ anh đào. (Geisha 芸者?), geiko (芸子) hoặc geigi (芸妓)
Từ "nghệ giả" được hình thành từ hai chữ gei ( nghệ) và sha ( giả) xuất phát từ phương ngữ Tokyo, được các ngôn ngữ phương Tây tiếp nhận dưới dạng geisha. Tiếng Nhật chuẩn gọi là "nghệ kĩ", Geigi (藝妓, "nữ nghệ sĩ"), và họ được gọi theo phương ngữ Kansai (関西 Quan Tây) là "nghệ tử", Geiko (藝子). Geisha trong thời gian học việc được gọi là "bán ngọc", Han'gyoku (半玉) (tại Tōkyō) hay "vũ tử", Maiko (舞子), hoặc "vũ kĩ", Maigi (舞妓), (tại Kyoto).

Geisha, phát âm /ˈgeɪ ʃa/ (gei- phát âm như gây), là thuật ngữ quen thuộc nhất đối với người nói tiếng Anh và cũng thường được sử dụng ở Nhật Bản.(*)
Chúng tôi đi dưới ánh đèn lồng hình dung ra nơi đây, một thời rất xa xưa là nơi có những nghệ nhân xinh đẹp sinh sống. Trong những căn buồng nhỏ, rất ít đồ đạc, họ thức, ngủ, trong những bộ áo kimono, di chuyển chậm rãi, từ tốn, đầy tính cách nghệ thuật trên những vuông chiếu trải (tatami room) sau những cánh cửa dán giấy, nhìn ra vườn có hoa anh đào hay những cây bonsai uốn lượn.

Họ chơi đàn, hát, rót rượu, mời trà với những cung cách đầy nghệ thuật cổ truyền, được huấn luyện từ sáu tháng tới một năm. Xin đừng nhầm họ với những người bán phấn buôn hương.
Theo lịch sử và tiến hóa thì trước khi có Geisha đã có Văn hoá Bushido góp phần đưa tới sự ra đời Văn hoá GeishaVõ sĩ đạo là một hệ thống luân lý đạo đức hoàn mỹ – một bộ giới luật bất thành văn mà người võ sĩ (Samurai) phải tuân theo: ngay thẳng, quang minh chính đại, cao thượng, nghĩa hiệp... Là tầng lớp quý tộc Nhật, các Samurai sống rất có văn hoá, lấy thi ca, nhã nhạc, thư pháp làm trò giải trí. Họ ưa được hưởng sự phục vụ từ phía nữ giới dưới hình thức văn hoá lành mạnh hợp với tâm hồn võ sĩ, chứ không phải hình thức phục vụ tình dục nhơ nhớp. Nhu cầu giải trí cao nhã ấy dẫn tới sự ra đời của Geisha, chứ hoàn toàn không phải để thỏa mãn ham muốn tình dục (*).

Đi trong những con hẻm xưa này, tôi nhớ lại:The Sound of the mountain, Thousand Cranes, House of The Sleeping Beauties, v.v. của nhà văn tài hoa Yasunari Kawabata ( 1899-1972) hiện về trong tâm trí tôi. Tôi tưởng tượng ra có một thời ông đã đi trong con hẻm này và thấy bước chân của tôi, hình như đang đặt trên dấu chân của ông ngày trước. Sự tưởng tượng đó đủ làm tim tôi đập sai đi một nhịp.
Tiếng nhạc vừa đủ vọng ra, không làm inh tai khách bên đường nhưng đủ để quyến rũ khách dừng chân.
Bốn ngày ở Kyoto, mỗi buổi chiều chúng tôi đều quay lại đây, đi qua những con hẻm, thưởng thức hình ảnh và dư vị của những mảnh linh hồn Kỹ Nữ dưới những ngọn đèn lồng, trước khi tìm bữa ăn cuối ngày.
Khách ngồi lại cùng em thêm chút nữa
Vội vàng chi trăng lạnh quá khách ơi!
Đêm nay rằm yến tiệc sáng trên trời
Khách không ở lòng em cô độc quá! (Xuân Diệu)
Với những nàng Kỹ Nữ Nhật, câu thơ sẽ dừng lại ở đây, không đi xa thêm nữa.
Người Nhật, buổi chiều tan sở ra, họ (các ông) thường đi ăn, uống với bạn ở ngoài quán trước khi về nhà. Hương nồng của những chén sake bốc tràn trên tay áo và trên mặt chiếu tatami.

Chúng tôi đi trong chập choạng hoàng hôn, hòa mình vào ánh đèn lồng, màu áo kimono và hương thơm của rượu.
Một Ngàn Cây Cột Mầu Cam
Nước Nhật có hai tôn giáo chính: Phật Giáo và Thần Giáo.

Thần Giáo được nhân cách hóa liên quan đến thiên nhiên như từ cây cỏ, tảng đá, đất, mặt trời, sóng biển, hay động vật. Những vong linh người chết được phong thần.

Một người được phong là thần từ khi còn sống đó là Minh Trị Tiên Hoàng (Thời kỳ MTTH: 1868-1912)
Những nghi lễ cho hôn nhân, cầu xin an bình, buôn bán, thi cử phần đông được cử hành theo Thần Giáo.
Tang lễ thường được cử hành theo Phật Giáo.



Thần đạo có rất nhiều các thần thánh, đến 8 triệu thần ( kami). Tuy một số các vị thần này được nhân cách hóa, đa phần các thần liên quan đến thiên nhiên như linh hồn của đất, trời, mặt Trăng, cây cỏ, hoa lá. Ngay cả đá, núi, hay động vật như cáo, gấu và người quá cố đã trở thành linh hồn cũng được xem là thần. Những thần trú ngụ ở tầng cao nhất trên thiên đàng gọi là "cao thiên nguyên" (高天原 takama-ga-hara), và chỉ rời khỏi đó khi được mời xuống các đền thờ trong các nghi lễ.
Fushimi-Inari Shrine là một địa điểm thờ thần Cáo (Fox) rất nổi tiếng. Ngôi đền này được xây cất từ năm 1499. (*)
 Ở đó người ta trồng 1000 cây cột (Thousand Torii) sơn màu cam đậm (màu ánh sáng của mặt trời). Mỗi cây cột to một vòng tay ôm có đục chữ trên đó (trạm thật sâu đến một phân). Những hàng chữ mang ý nghĩa ghi ơn của các thần đã phù hộ cho mùa màng, hoa màu, sự bình an, sinh đẻ và nhất là cho những doanh nghiệp. Nhiều nhà buôn có tượng thờ Thần Cáo ngay tại hãng xưởng của mình.
Lối vào cửa đền hai bên hàng quán bán đồ lưu niệm và thức ăn đông đảo. Tuyệt nhiên không một mảnh rác nào vứt trên mặt đất. Việc tìm được một thùng rác công cộng, rất là hi hữu và nếu có, cũng là một cái thùng rất nhỏ. Người Nhật tự giữ rác của mình, đem về nhà.
Nghi thức của người Nhật mỗi khi vào cửa đền, hay đến trước tượng Phật cầu xin, chiêm ngắm, mọi người đều phải thanh tẩy hai bàn tay và miệng của mình. Ở trước mỗi cửa đền hay mỗi chân tượng (dù Phật Giáo hay Thần Giáo) thường có xây một hồ nước, để sẵn những chiếc gáo cho du khách thực hành nghi thức này. Bạn rửa tay xong, vốc nước lên rửa ngang miệng.

 Miệng không còn hơi hướm những lời không tốt, tay không còn dấu vết đã làm việc xấu trước khi thờ cúng, khấn xin.
Chúng tôi mất độ gần một tiếng để đi qua những bậc đá dưới chân một ngàn cây cột màu mặt trời, làm thành một đường vòng đưa lên đỉnh một ngọn đồi nhìn xuống bên dưới thành phố Kyoto, rồi quay trở xuống.
Đường lên chùa Hương nếu không đi bằng giây cáp treo, chắc khó khăn hơn vì những lối đi không được giữ sạch sẽ và an toàn như lối đi cả ngàn bực này, nhất là chen lấn. Ở Nhật dù đông thế nào chăng nữa, sự chen lấn cũng không xảy ra.
Người lên, kẻ xuống tấp nập, phần đông là du khách người Nhật ở thành phố khác tới, du khách Nhật bao giờ cũng đông hơn gấp nhiều lần du khách ngoại quốc.
Lung Linh Ánh Vàng
Kinkaku-ji, Kim Các Tự, chùa có gác bằng vàng. Đến đây chiêm ngắm, chẳng hiểu sao, tôi bất giác nhớ đến câu: Kim ốc tàng Kiều (Nhà vàng cất người đẹp) mặc dù hiện tại, đây là một Thiền Tự. Chắc tại lần đầu tiên nhìn thấy một gác chùa dát vàng nên điển tích của ngôn ngữ trở về.


Kim Các Tự
Yoshimitsu, là Shogun thứ 3 của Ashikaga, thoái vị quyền uy của mình vào năm 1394. Ba năm sau, ông bắt đầu xây dựng khu an trí cho mình, và ông đã thực hiện bằng một nỗ lực đặc biệt để làm cho nó trở thành một vùng kiến trúc ngoạn mục. Ông đắm mình trong cuộc sống yên bình của mình trong khung cảnh thanh bình này. Sau khi Yoshimitsu qua đời, con trai ông, Kitayamaden theo di chúc của cha đã biến dinh thự này thành một Thiền Viện (một ngôi đền Zen).

Trong cuộc chiến Onin (1467-1477) chùa bị cháy rụi, nhưng được xây lại. Tuy nhiên, các khu vườn chung quanh, vẫn còn nguyên vẹn như ngày xưa, và người ta vẫn có thể được thưởng thức như nó đã được thưởng thức hàng trăm năm trước. Tên phổ thông của chùa là Lộc Uyển Tự, chùa Vườn Nai.

Ngôi chùa có ba tầng, soi bóng xuống ao Kyoko-chi, tức Kính Trì (ao Gương). Hai tầng trên vách được dát bằng vàng lá nên mới có tên là gác vàng. Gọi chung là chùa Vàng. Cảnh trí chung quanh chùa có hoa lá, cỏ cây hài hòa ngoạn mục.

Gần 500 năm sau (1950) tòa Gác Vàng bị một nhà sư nổi lửa đốt thành tro.

Chùa được trùng tu lại năm 1955. Năm 1987 gác chùa được dát thêm lớp vàng mới và sửa chữa nội thất. Gác này thường được so sánh với Ginkaku (Ngân Các tức Gác Bạc) ở chùa Jisho-ji cũng ở Kyoto.
Nhà văn Mishima Yukio phóng tác việc đốt chùa của nhà sư này trong cuốn tiểu thuyết có tựa là Kinkaku-ji. Cuốn sách này được dịch ra nhiều thứ tiếng kể cả tiếng Việt do Đỗ Khánh Hoan và Nguyễn Tường Minh dịch và xuất bản ở Sài Gòn vào cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970.
Chùa Kinkaku-ji đã được ghi nhận là Di Sản Văn Hóa Thế Giới vào năm 1994.
Lịch sử của ngôi chùa là điều quan trọng và du khách nào cũng muốn hiểu tường tận. Nhưng thật sự khi đứng trước một ngôi chùa dát vàng xây trên một chiếc hồ như thế, tôi không nhìn chùa, mà cứ xăm xoi nhìn cái sắc vàng in trên mặt nước, nhìn những cái đuôi cá Anh Vũ thỉnh thoảng quẫy mạnh một cái làm những mảnh vàng bắn tung tóe, thấy cả ngôi chùa như tan ra từng mảnh vàng vụn.
Thời gian như đứng lại, không gian dường bốc hơi. Giữa buổi trưa nắng ấm nồng  bỗng nhớ tới câu thơ tả đêm khuya chú tiểu với ngôi chùa cũ, nghèo, mà mình đã được đọc từ một thời xa xôi nào:
Chùa xưa mái ngói cũ
Trèo lên níu cây sào
Đêm khuya rồi không ngủ
Kéo rụng bao nhiêu sao.  
(Huyền Không)
Tiếng Hát Màu Xanh
Đó là âm thanh cất lên từ cánh rừng tre Bamboo Sagano ở khu ngoại ô Arashiyama  của Kyoto.
Khu ngoại ô này là một đại điểm hấp dẫn du khách vì ngoài rừng tre nó còn nổi tiếng với chiếc cầu gỗ Togetsukyo, đập nước nhân tạo, những ngôi nhà bán quà lưu niệm, những ngôi chùa nhỏ rải rác chen lẫn giữa quán ăn và ngôi đền Tenryuji. Hoa anh đào mùa xuân và lá thu phong thay màu cũng là một điểm tuyệt vời được nhắc đến nữa.
Chỉ cần 30 phút đi xe lửa từ thành phố đến đây. Đi bên nhau im lặng, bóng tre xanh giao nhau, chụp trên đầu như một chiếc nón thật to. Ngoài vẻ đẹp thanh thoát, thiền tịnh của cả khu rừng 16 cây số vuông toàn tre này, mỗi khi có cơn gió nhẹ thổi qua, bạn sẽ được nghe tiếng hát màu xanh cất lên từ những thân tre của khu rừng ngọc bích, tiếng hát du dương trầm bổng.
Đôi khi nghe cả được tiếng thân tre va vào nhau bật lên tiếng “tích tích” khe khẽ như tiếng mõ cầu an nho nhỏ.
Cũngcó lúc tiếng lá tre xì xào tưởng như ai đang đọc một bài thơ. Thơ Đường, thơ Nguyễn Trãi, thơ Nguyễn Bính hay thơ Hồ Dzếnh hay thơ Hài Cú của Basho. Những lời thơ nhẹ như sáo trúc!
Chúng tôi tới rừng tre vào buổi chiều khi mặt trời vừa lặn, nên được hưởng toàn vẻ u tịch của rừng. Bỗng nhớ đến một đoản văn tả cành tre và mặt trăng của Nguyễn Tuân:
Chàng nhìn trăng qua cành lá tre, cành lá sắc và đen như mực, vắt qua mặt trăng như một bức tranh Tàu…
Tôi hình dung ra cả khu rừng tre này vào một đêm trăng để thấy rõ hơn nữa cảnh lá tre vắt qua trăng trong câu văn thật đẹp của Nguyễn Tuân.
Tiếng hát, tiếng mõ, hay tiếng ngâm thơ cất lên trong rừng tre này đã được chính phủ chọn là: một trong một ngàn âm thanh của nước Nhật cần được bảo tồn.
Con đường bên cạnh khu rừng, được hoàn thành bằng những thân và lá của những cây tre già ngã xuống, khi dẫm chân lên đó, những tiếng động khô sẽ xào xạc dưới gót chân mình. Lại một âm thanh rất lạ, rất khác của tre cho ta thưởng thức!
Chúng tôi vừa ngắm những thân tre xanh biếc hàng hàng lớp lớp nối nhau vừa nhìn xuống những chồi măng mọc khỏe mạnh, gọn gàng như những học sinh Nhật mặc đồng phục đi dưới phố mỗi ngày.
Được biết vào năm 1870 khi Edison muốn tìm loại tre thật tốt để dùng những sợi tre tước ra (material of filament) sáng chế những bóng đèn đầu tiên, giống tre ở khu rừng này đã được nhà nước Kyoto giới thiệu là một trong hai nguồn tre cung cấp cho ông.
Người Nhật ở Kyoto
Kyoto cổ kính là cố đô của nước Nhật nên việc bảo thủ không lấy làm ngạc nhiên.

Các khách sạn, cửa hàng buôn bán, hàng ăn, khu nhà ga xe lửa, trạm xe bus, không hề có một dòng chữ tiếng Anh nào cho khách du lịch. Ngay cả nhân viên khách sạn, vốn tiếng Anh để tiếp khách rất ngập ngừng và chỉ một người có thể nói mà thôi. Họ hầu như thấy việc cần thêm một sinh ngữ lạ, ngoài quốc ngữ trong thành phố là không cần thiết.
Người Nhật ở đây, nhiều lễ phép nhưng lại rất ít cười. Trong khách sạn, nhà hàng, trên xe hỏa, lúc nào họ cũng cúi rạp đầu, nói lời cám ơn hay xin lỗi, mỗi khi mình đi qua họ, hay họ phải đi qua mình.
Trên xe bus không thấy ai cười với ai, họ đứng nghiêm chỉnh, không chen lấn nhưng ít thấy nhường ghế cho người lớn tuổi. Hình như tất cả chỉ tập trung vào chính mình.

Quần áo họ mặc ít màu sắc, ngay cả giới trẻ. Đồng phục của người đàn ông đi làm là những bộ suit đen, đàn bà hiếm thấy mặc áo in hoa hay màu sắc tươi, đồng phục của học trò nam và nữ là màu xanh nước biển đậm.
Họ đi nhanh, không ai nhìn ai, họ chỉ nói chuyện trong quán, sau những chai sake.

Mà những chai sake thì không khi nào thiếu.

Tháng 5/12/2015
(*) Tài liệu tìm thêm trên Wikepidea