Ngày
13, tháng 6 của năm 1975, Chị và bố mẹ rời trại Pendleton theo người bảo trợ
cũng là người bạn trong giới truyền thông Mỹ từ hồi còn ở Việt Nam, đến thành
phố Encino, California. Khi chị rời trại ngày thứ sáu 13, mấy người bạn cùng lều
bảo chẳng nên ra trại vào ngày này, không tốt đâu. Nhưng người bảo trợ nói, chị
có cha mẹ già, không nên ở lâu trong trại, ban đêm lạnh, không tốt cho sức khỏe
hai cụ. Cá nhân chị thì chẳng còn tin vào may rủi gì nữa. Cả một cái tháng tư
năm nay, ngày nào không là ngày xấu đối với cả triệu người dân miền Nam.
Tạm
trú nhà bạn được hai tuần, chị tìm được việc làm ngay, nhờ vợ bạn là người Nhật,
giới thiệu chị đến phỏng vấn trong một ngân hàng Nhật. Có lẽ thứ sáu,13 lại là
ngày may của chị (đành phải tin vào vận may vậy) nên chị được chọn vào làm Bank Teller, là một, trong ba người cùng
tới xin việc hôm đó.
Chị
rời nhà bảo trợ ở Encino, thuê được căn chúng cư, một phòng ngủ, có sẵn đồ đạc ở
cách nơi chị làm có ba ngã tư, ngân hàng Mitsui Bank trong World Trade Center,
Los Angeles.
Mỗi
ngày, chị đi bộ đến sở làm. Tính từ ngày rời Việt Nam 21 tháng 4, tới Mỹ chưa
được hơn hai tháng, không có xe, bằng lái xe cũng chưa có, đi bộ là giải pháp
đúng và hay nhất.
Dọn
mấy cái bao quần áo của ba người vào nhà, rồi mới bắt đầu đi mua những dụng cụ
nhà bếp ở Garage Sale, Goodwill; chăn
gối ở K-mart. Căn chúng cư có hai
phòng. Một phòng ngủ duy nhất nhường cho ba mẹ, một phòng nữa vừa là phòng
khách, phòng ăn liền với bếp. Chiếc sofa
dài kê sát ở góc tường, ban ngày là nơi tiếp khách (nếu có khách), ban đêm là
giường ngủ của chị. Lúc đó còn trẻ, dễ ngủ, lại biết cái thân phận di tản nên tự
cho thế là may mắn lắm rồi.
Nơi
cư ngụ tạm yên ổn, chỗ làm tốt, công việc một phát ngân viên trong ngân hàng chỉ
cần cẩn thận và nghe chỉ dẫn của xếp. Với số lương $520 Mỹ kim một tháng, chị
coi như mình đã may mắn hội nhập nhanh hơn một số người thân.
Một
buổi tối cuối tuần, chị dọp dẹp nhà cửa, nhìn lên tường thấy trống quá, chị tự
nhủ, sáng mai sau khi đi nhà thờ, mình nên đi tìm mua một tấm tranh treo trên
tường. Chưa biết là loại tranh nào, nhưng ít ra cũng phải làm cho bức tường ở giữa
phòng ấm áp một chút chứ.
Chị
đi loanh quanh Garage Sale, Goodwill,
và mấy cái tiệm tàng tàng rẻ tiền, chẳng tìm ra bức tranh nào ưng ý. Mấy cái
tranh in phong cảnh bãi biển, hay thành phố, hoa lá, trông tất cả đều vô hồn
làm sao! Chị cứ cầm lên, bỏ xuống, cuối cùng về tay không. Chị đi hai ba lần cuối
tuần như thế, cũng chẳng được bức nào thích mà vừa túi tiền. Túi tiền của chị
lúc đó hạn chế lắm. Cuối cùng chị quyết định. Tại sao mình không tự vẽ một bức
tranh nhỉ? Ở Việt Nam chị có vào trường Mỹ Thuật Gia Định học vẽ một thời gian mà.
Chị
đi làm, hỏi đồng nghiệp mua dụng cụ vẽ ở đâu? Và chị chọn vẽ mầu nước thay vì
sơn dầu cho rẻ hơn.Vẽ chì than trông buồn lắm, mà không phải họa sĩ thứ thiệt dễ
trông thấy cái vụng. Chị thuộc loại “Họa sĩ vụng”. Cuối cùng chị mua giấy và một
số mầu nước về. Chị bắt đầu vẽ một bức tranh tĩnh vật:
Chị
không ngờ bức tranh tĩnh vật chị bắt đầu năm 1975, chị tiếp tục vẽ đến bây giờ,
bức tranh vẫn dở dang. Chắc nó không bao giờ hoàn thành.
Khi
chị dựng cái giá vẽ lên, chị phân vân không biết nên bắt đầu vẽ cái gì vào đó.
Quả táo, ổ bánh mì, chai rượu, bình hoa là những thứ họa sĩ hay cho vào tranh
tĩnh vật. Với chị, những thứ ấy chẳng nói lên được cái gì thuộc về đời sống của
chị.
Chị nghĩ mình nên vẽ vào đây những gì mình đem
theo ở quê nhà, nhờ bức tranh giữ cho chị. Kẻo thời gian và đời sống của một
người di tản rất dễ làm mất đi những gì thuộc về quá khứ. Làm sao chị biết cuộc
đời sẽ thổi chị đi tới đâu nữa, sau khi cơn giông bão hãi hùng đó đã cuốn chị
trôi xa ngàn vạn dặm.
Trong
cái túi di tản, khi hấp tấp ra đi, chị mang theo chẳng nhiều gì, nhưng chị cũng
phải lựa ra. Cái túi đó có: Một chiếc áo dài nội hóa, một cây son môi, cuốn Kiều,
cuốn Chinh Phụ Ngâm,ba bộ quần áo thay đổi hàng ngày và ba trăm Mỹ kim (vẫn để
dành, chưa tiêu đến đồng nào) ít đồng bạc Việt Nam còn sót lại.
Năm 1975 chị vẽ vào trong tranh: Cây son màu Terra Cotta (màu hồng đất). Chị nhớ cây
son này anh ấy mua cho chị vào một ngày gần Tết, trong Passage Eden, lúc đó hai người mới đính hôn. Chị đã mặc chiếc áo dài
màu cam nhạt, thoa son màu hồng đất cùng anh đi chúc Tết, đi chơi với bạn hữu của
hai gia đình. Chị nhớ lại, mỗi lần nhìn màu son trên môi, chị thấy nó đẹp như mối
tình của hai người: cái màu hồng của cánh hoa pha mầu nâu của đất, thật nhẹ
nhàng nhưng sao vẫn nồng nàn quá đỗi.
Chị vẽ thêm cuốn Kiều, cuốn Chinh Phụ Ngâm và
vạt áo dài mầu cam nhạt. Bức tranh treo trên tường năm đó, nền trắng với một vệt
son môi nằm bên hai cuốn sách màu nâu nhàn nhạt, có vạt áo dài màu cam ngọt
ngào vắt ngang.
Thời gian trôi như
mộng, chảy một giòng sông đời. (*) Năm này sang tháng khác. Chị làm lại
đời mình. Sinh con, nuôi con, chăm nom cha mẹ già, rồi cha mẹ mất đi.
Chị
vẽ thêm hai cây thập giá vào bức tranh tĩnh vật.
Đời
sống quanh chị với bao nhiêu là tiếng động. Có những tiếng kêu vang vọng đến từ
quê nhà xa ngút ngàn. Có tiếng kêu âm ỉ trong lồng ngực chị. Chị không biết vẽ
tiếng động như thế nào, chị vẩy vào tranh những giọt mầu đỏ, những giọt màu tím
than.
Con
cái dọn ra khỏi nhà như chim vỗ cánh ra giàng. Rồi con gái chị thành người mẹ,
con trai chị thành người cha. Soi gương thấy mình tóc trắng. Chị vẽ vào bức
tranh tĩnh vật một dòng sông màu lục và những sợi tóc màu xám tro.
Bức
tranh theo chị từ thành phố này qua thành phố khác, từ ngôi nhà này sang ngôi
nhà kia. Mỗi nơi chị thêm vào một chút, lá cờ quốc gia trong tranh của chị cũng
đứng im như gió đứng. Mỗi lần nhìn vào, chị như muốn mang hết hơi của mình thổi
vào nó, cho nó tung bay. Lá cờ không nhúc nhích, nước mắt chị lại trào ra.
Bức tranh im lặng, nhưng vùng biển quê hương
chị thì sóng đang gào, những tiếng gào trong họng biển, chị vụng về không diễn
tả nổi. Chị quẹt trong tranh một mảng xanh đen loang lổ, đến bất tận.
Chị
muốn vẽ về người dân Việt ở quê nhà, nhưng trí tưởng tượng của chị nghèo nàn
quá, chị không biết dùng mảng màu nào để vẽ xuống những thăng trầm, những nghịch
lý, những tương phản đang diễn ra nơi đó. Chị vẽ xuống một vòng tròn không màu.
Bức
tranh toàn những mảng màu câm.
Tết
âm lịch lại về, tháng 4 rồi lại đến.
Bốn
mươi năm bức tranh tĩnh vật vẫn chưa hoàn thành. Chị nhìn bức tranh treo trên
tường tự hỏi: Khi nào mình sẽ ở trong bức tranh này? Chị cầm chiếc cọ loay hoay
không biết, nếu vẽ, thì mình đặt mình vào đâu? Ở trên cùng bức tranh nhìn xuống,
hay ở dưới bức tranh nhìn lên. Mình sẽ đứng trên một ngọn đồi đầy gió ở quê người
hay mình sẽ ngồi bên một bãi biển, sóng êm, gió lặng ở quê nhà, hay mình sẽ im
lìm như cây thập giá cạnh mẹ cha.
Bức
tranh tĩnh vật không trả lời chị. Chị nhìn con số 1975 trên góc bức tranh. Chị
ngửi thấy thoang thoảng trong không gian mùi hương trên bàn thờ của ngày 30 tết.
Chao
ôi, đã bốn mươi năm rồi. Chị đứng lên đi mở tất cả cánh cửa trong nhà cho gió
lùa vào.
Ước gì gió thổi tất cả những gì chị vẽ trong
tranh bay đi, bay đi.
Ước
gì gió đưa chị về lại nơi chốn thân yêu của bốn mươi năm ngày xưa đó, và mọi sự
ở nơi đó vẫn đứng lại như trong một bức tranh tĩnh vật, đợi chị về.
Em ước tuổi mình
như pháo đỏ
Người quên chưa đốt
lúc xuân về (*)
Tết
Ất Mùi-2015
(*)
Thơ tmt