Gửi Sơn-Lan, Chi-Tiến, Cường-Mai,
Để ghi nhớ những ngày Hà Nội gió
cuối năm 2005
Để ghi nhớ những ngày Hà Nội gió
cuối năm 2005
Gió mùa đông bắc làm em khóc
Hà Nội, anh ơi phố rất gầy! (tmt)
Tôi trở về nhà sau một chuyến
bay dài đỏ mắt. Không biết ai là người đầu tiên đặt tên cho những chuyến bay
đêm là đỏ mắt thật là hay. Chập chờn giữa thức và ngủ cả mười ba, mười bốn
tiếng thì chắc chắn mắt xanh như cô Kiều của cụ Nguyễn Du cũng thành mắt đỏ.
Chữ nghĩa mang ảnh hưởng đến đời sống tình cảm của ta rất nhiều, có những chữ
mình không thể nào thay bằng chữ khác được. Mỗi lần đi, về giữa Việt Nam và Mỹ
tôi vẫn lúng túng giữa về Mỹ, hay về Việt Nam. Việt Nam là quê hương của mình
thì mình về là đúng rồi, nhưng ở Mỹ có một mái nhà, mảnh vườn, cái bếp của mình
thì mình nói là về đâu có sai. Nhưng sao lúc từ giã Việt Nam, chào những người
thân quen, nói tiếng trở về Mỹ lòng vừa ấm áp vừa thấy buồn buồn. Ba mươi năm sống
ở Mỹ mà vẫn chưa mờ nỗi nhớ quê hương, vẫn bất chợt một hôm nào đó, không cần
phải là có nắng thu hay có mưa đông, chỉ là một buổi chiều như tất cả mọi buổi chiều,
đang ngồi uống ly trà bỗng khựng lại nhớ về một buổi chiều nào rất xa xôi ở
quê nhà thăm thẳm, về cái xóm cũ, về cái ngõ vào nhà, về cái vũng nước đọng ở
cái ổ gà đâu đó, về cây trứng cá, về cái bể nước mưa. Rồi lan man nhớ về trường
cũ, về buổi hẹn hò đầu tiên, người yêu thứ nhất, người tình thứ hai. Chao ôi,
nhớ ơi là nhớ! Nước mắt ứa ra, bỗng thèm được về quê ngay lập tức. Thế mà về
Việt Nam đến tuần lễ thứ ba là bắt đầu nhớ về cái nhà ở Mỹ. Không biết mấy chậu
cây có ai tưới hộ không? Mùa Đông này tuyết có rơi không? Nhớ về mấy người
thân, mấy người bạn đang mong mình về, rồi lại nhớ về cái sạch sẽ, cái tiện
nghi và chỉ ước gì được về ngay để ngủ trên cái giường của mình thay vì phải
ngủ ở khách sạn.
Chao ôi! chỉ một chữ về mà có trăm điều muốn nói.
Anh Sơn, ông anh họ của tôi, du học từ thập
niên 1960. Bây giờ ngoài sáu mươi tuổi, anh đã đi du lịch khắp nơi trên thế
giới, anh nói:
- Bao giờ về Việt Nam tôi vẫn thích nhất.
Tôi nói :
- Tại vì Việt Nam là quê hương của mình, nên
tự nhiên mình yêu. Thế thôi!
Anh bảo:
- Đúng vậy!
Chúng ta chắc ai cũng yêu quê hương của mình, tự
nhiên như yêu cha mẹ, con, cháu hay yêu chính bàn tay, bàn chân mình. Thế thôi!
Thật là giản dị. Thế là anh em rủ nhau thu xếp về Việt Nam. Về Việt Nam vào dịp
cuối năm, vào dịp thiên hạ kéo nhau về quê ăn Tết rất là đông nên phải mua vé
từ tháng sáu.
Tôi cứ tính tới tính lui xem phải đem những
gì? Vì lần này đem theo cả chồng con, sẽ dự tính đi nhiều nơi nên không thể đem
theo những thùng quần áo lạnh về Bắc cho họ hàng ở quê được. Thôi đành giữ lại
chờ dịp sau. Cứ cách hai, ba năm tôi về thăm Việt Nam một lần. Mỗi lần về lại thấy một Việt
Nam đổi khác, nghe những câu chuyện khác về Việt Nam. Hai cậu con trai của tôi mới
về lần thứ nhất, đã thấy xôn xao rủ nhau cuối năm trở lại không có bố mẹ đi
theo. Chắc trong máu hai cậu, những giọt nào thuộc về mẹ cho mình đang dành chỗ đứng.
Chúng tôi đi trong một Hà Nội đầy gió, người Hà
Nội đặt tên cho gió này là Gió Mùa Đông Bắc. Có không biết bao nhiêu thi sĩ,
bao nhiêu nhạc sĩ đã xúc động về những cơn gió này và viết ra bao nhiêu tác
phẩm làm thăng hoa đời sống con người để ngay cả khi đang sống trong một hoàn
cảnh khó khăn nhất, con người vẫn tìm ra cái đẹp của nơi mình đang sống. Khí
hậu của tháng Mười Một và tháng Chạp âm lịch là khí hậu lạnh và đẹp nhất trong
năm của miền Bắc. Gió hay trở lạnh đột ngột như một người đi xa bỗng trở về
không báo trước. Có thể mới buổi sáng trời còn rất ấm
không có gì báo hiệu là một ngày lạnh, nhưng đến trưa gió ở đâu bỗng kéo về
chật phố. Gió chen chúc vào đám đông đang đi trên đường, gõ cửa những ngôi nhà,
hàng quán, ngồi sát vào những người buôn bán hai bên vỉa hè rất là hồn nhiên. Chẳng cần nói năng gì cả. Chỉ cần
có mặt, tôi đến, tôi ngồi xuống và tôi ở lại. Giống như Caesar ngày trước I
came, I saw, I conquered. Thế là mọi người chạy ùa đi mua áo ấm để ngồi chung
với gió. Chúng tôi đã được đi, được ngồi chung với Gió Mùa Đông Bắc trong suốt
mười ngày ở Hà Nội.
Bây giờ ngồi đây nhớ Gió Mùa Đông Bắc, muốn khóc.
Suốt từ Sài Gòn, đi xe ca theo tour Tiền
Giang, Hậu Giang, Phan Thiết, Nha Trang, Hà Nội rồi bay ra Phú Quốc, ta nhìn
thấy cảnh phồn thịnh luôn luôn đi bên cạnh sự nghèo đói một cách rất rõ ràng.
Miền Bắc, miền Trung ở quê vẫn còn khổ và nhiều người rất nghèo trong khi ở thành phố Sài Gòn, Hà
Nội, hàng đêm người ta đổ xô ra phố tiêu tiền (không biết tiền ở đâu ra mà
nhiều thế!). Ở những nhà hàng, những quán ăn thì người trong nước tiêu phung
phí hơn Việt kiều. Thử vào một chỗ ăn chơi như vào bar chẳng hạn, thì có thể
chỉ nhìn chai rượu gọi sẽ nhận ngay ra ai là Việt kiều ai là Việt Việt (chữ một
cậu cháu tôi dùng để gọi người trong nước). Việt kiều xài sang gọi chai rượu
một trăm năm mươi (150) Mỹ kim, trong khi đó Việt Việt gọi chai rượu một ngàn năm
trăm (1.500) Mỹ kim. Tôi quê mùa, hỏi cháu:
- Chai rượu gì mà đắt vậy?
- Con không biết, nhưng thấy
họ trả một ngàn năm trăm Mỹ kim cho chai rượu; họ đi năm, sáu người tiêu một
buổi tối năm ngàn đô là chuyện nhỏ.
Nghe nói một tối tiêu năm ngàn đô là chuyện
nhỏ thì chắc ai cũng biết cái xuất xứ của những số tiền nhỏ đó thật là mù mịt. Ăn uống ở các tiệm bây giờ cũng đắt hơn gấp năm
sáu lần của ba năm trước và không ngon. Trung bình chúng tôi ăn một bữa cho một
người là từ ba cho đến bảy Mỹ kim. So với ở Mỹ thì rẻ, nhưng với tiền lương của
một người trung bình là bảy trăm ngàn đồng Việt (khoảng hơn bốn mươi Mỹ kim một
tháng) thì làm sao trả được. Tôi tự hỏi, Sài Gòn bây giờ hình như không ai nấu
ăn trong nhà hay sao mà tối nào các tiệm, các quán cũng tấp nập khách ăn? Bao
giờ nhìn chung quanh các bàn cũng rất nhiều người địa phương ngồi ăn, phần đông
là giới trẻ và trung niên. Trên bàn đầy ắp thức ăn và bia, nước ngọt.
Lương của một công chức không biết con số thật
là bao nhiêu? Tôi có một người em họ xa ở Hà Nội, làm phó giám đốc một công ty
nhà nước gì không rõ mà anh đi xe BMW, khi chúng tôi tới thì vợ đang du lịch ở Singapore,
con thì đi du học ở Mỹ, một năm hết ba mươi ngàn Mỹ kim tiền học, chưa kể
chi phí ăn ở. Nghe mà giật mình! Theo cách anh nói chuyện thì ở Việt Nam bây giờ
du học tự túc ở Pháp và Đức như một phong trào cho các con ông lớn. Học giỏi
hay không thì chưa rõ, nhưng mà đã là con của những ông lớn thì phải xuất
ngoại, phải du học. Sang bên đó không học được thì ở chơi một thời gian, may
mắn kiếm được người lấy thì ở lại, không thì về.
Nghe anh nói, tôi nhớ đến một ca làm việc của mình
ở Mỹ. Khi tôi đến thăm tại gia (home visit) cho một sản phụ được hưởng Phiếu Y
Tế (Medical Coupon), tôi mới biết đó là một sinh viên Việt Nam du học tự túc,
có bầu và ở lại. Cô là sinh viên du học mà không nói được một câu Anh ngữ nào. Căn nhà
cô ở thuê là một Waterfront Apartment. Tôi hỏi tiền đâu mà cô trả tiền nhà thì
được cô cho biết căn apartment này cha mẹ cô chuyển tiền sang mua, trả bằng
tiền mặt, cho một người bà con có quốc tịch Mỹ đứng tên. Nghe mà giật mình, vì tôi biết một apartment như
thế ở Seattle ít nhất cũng là bốn trăm ngàn Mỹ kim, bởi gần sát mặt hồ.
Khi có những người giầu không rõ xuất xứ lợi
tức như thế thì người nghèo có xuất xứ rất rõ ràng. Họ sống bằng những món tiền
kiếm được hàng ngày rất khiêm tốn. Nếu đi dọc theo bờ hồ Hoàn Kiếm ta sẽ luôn
luôn bắt gặp những người (một cụ già hay một đứa trẻ đang tuổi đi học) bán vé
số hoặc nước trà. Bán vé số thì lấy vé của nhà nước đi bán lại, mỗi vé số giá
có hai ngàn, không biết lời được bao nhiêu? Trong khi đó giá một gói xôi khoảng
bốn ngàn đồng (một Mỹ kim bằng 15.900 đồng) (1). Vốn liếng của người
bán nước trà tất cả chắc chưa đến ba Mỹ kim: một cái ấm ủ trong cái khăn cũ
kỹ, vài cái ly thủy tinh nhỏ, năm ba cái kẹo lạc, kẹo vừng. Họ ôm cái gia sản
bán buôn đó trong vòng tay gầy guộc, mời khách bên hồ. Hy vọng họ kiếm đủ cơm
ăn cho một ngày hôm đó. Ngay ở trong khu phố có tấp nập khách du lịch, thỉnh
thoảng ta vẫn thấy một người gánh hai cái thúng hầu như chẳng có gì trong đó,
chỉ có vài ba mớ hành, mấy củ su-hào, mấy quả chanh đem đi bán. Chắc đây là
những thứ kiếm được trong vườn nhà. Tiền thu về may ra đủ cho một gói xôi hay
hai chiếc bánh mì không nhân. Có cô bé lên năm cầm từng chiếc kẹo cao su lẻ bán
cho du khách, cô bé nhỏ xíu, đen thui, ốm nhách mà cái mặt tươi như một bông hoa
mười giờ, chạy theo con gái tôi, đưa cái kẹo ra mặc cả bằng thứ tiếng Mỹ ngô ngọng,
thấy vừa buồn cười, vừa tội nghiệp. Cô con gái tôi trêu cho em cười bằng cách
nói tiếng Việt cũng ngô ngọng với em và gần như muốn bế em lên, vì em bé xinh quá!
Ôi tuổi thơ Việt Nam! Khi em lớn lên, em sẽ có
ước vọng gì?
Càng đi về miền quê càng thấy những người nghèo.
Ở những nơi ruộng nước như lối vào Tam Cốc, Bích Động ở Ninh Bình hay Suối
Trong, Suối Đục ở Chùa Hương thì những người dân quê vẫn ngâm một nửa người
trong nước nguyên ngày mò ốc, lưới tép kiếm ăn. Một kí tép khoảng hai chục
ngàn, ngâm nước nguyên ngày được khoảng ba đến năm kí, kiếm được sáu mươi ngàn
đến một trăm ngàn đồng cho nguyên một gia đình bốn năm người, trong đó có cả
tiền học cho con. Trẻ con đi học cho biết đọc, biết viết rồi nghỉ vì không có
tiền trả tiếp, lại đi ngâm mình dưới nước giống cha mẹ thôi. Suốt một đời họ
ngâm dưới nước. Người chèo thuyền chỉ cho chúng tôi xem một vài nấm mộ chôn một
nửa chìm dưới nước, nói là mộ của những ông bà cụ già suốt đời mò cua, xúc tép
ở đây, họ muốn con cháu họ chôn mình như thế, vì họ đã có câu: Sống ngâm da,
chết ngâm xương để chỉ đời sống gắn liền với nỗi vất vả này.
Du khách Âu Châu đổ vào Việt Nam một ngày một
đông hơn, sau sau vụ khủng bố 11/9/2001. Cả nước sống về nguồn lợi thu nhập
được của du khách. Du khách nước ngoài vào, mang theo bao sự thay đổi. Việt
kiều đóng một vai trò không nhỏ trong môi trường này. Mỗi người đem một ít về
cho thân nhân, giúp vốn buôn bán, xây lại nhà cửa, mai mối cho lấy chồng nước
ngoài. Cho nên ta thấy có những con hẻm lầy lội, nghèo nàn tự nhiên mọc lên một
cái nhà hai ba, thậm chí bốn từng. Cửa kính, cửa sắt đứng cô đơn như một anh hề
sau khi vãn hát. Những cô gái được tân trang từ đầu đến chân để lấy chồng nước
ngoài, trông như những con búp bế vô hồn. Đã có một số cô bằng lòng lấy bất cứ
ai, dù đó là anh cắt cỏ hay rửa chén bên Mỹ, bên Úc. Ngay cả một anh ăn tiền
trợ cấp tàn tật cũng vẫn lấy. Cứ lấy để đi đã, sang đó không ở được thì bỏ.
Những câu chuyện đó bây giờ không có gì là mới lạ nữa, chỉ có sang bên đó mà
sau năm năm không bỏ chồng thì mới gọi là Lạ. Người không có thân nhân lo
cho, thì sẽ rơi vào bất cứ một bàn tay không lương thiện nào đó và đã xẩy ra
bao nhiêu thảm kịch. Ban đầu thì còn là chuyện thương tâm, sau đi đến nỗi quốc
nhục.
Nhiều cô gái quê lớn lên trong cảnh nghèo sẽ làm
bất cứ điều gì, không đắn đo để được thoát ra cảnh mò ốc, bắt cua, làm ruộng.
Cô ở tỉnh thì chạy theo những nhu cầu vật chất và cũng một phần muốn có một
cuộc sống nhàn nhã, không phải vật lộn với đời sống xã hội khó khăn hiện tại,
nên họ không ngần ngại làm gái bao cho những người nước ngoài. Chúng tôi đã gặp
trên con đường từ Bắc vào Trung, ra Nam một vài cô rất trẻ, khoảng mười bảy đến
hai mươi hai tuổi, đi cặp đôi với những người đàn ông luống tuổi nước ngoài như
Thụy Sĩ, Đức, Pháp, Đại Hàn, Đài Loan .v.v. Trên bãi biển Phú Quốc nơi chúng
tôi tắm, một lúc chúng tôi gặp ba người Đức độ ngoài sáu mươi tuổi cùng tắm với
ba cô gái Việt rất trẻ. Họ ngồi ngay ở mấy cái võng và bàn ăn dưới gốc dừa cạnh
chúng tôi. Họ nói tiếng Anh với mấy cô, mấy cô nói rất ít, ngoài lắc, gật và
cười ròn rã. Một lúc sau có thêm một người nữa dắt một cô đến, họ làm quen và nhập
bọn với nhau. Họ ngồi ngay cạnh chúng tôi, nên dù không chú ý cũng nghe rõ
tiếng những người đàn ông nói với nhau:
- Gái ở đây hiền và dễ bảo hơn gái Sàigòn.
- Sống ở đây, cần bao nhiêu một tháng, kể cả tiền
trả cho mấy cô này?
- Rẻ lắm, chỉ độ năm trăm Mỹ kim thôi.
Hình ảnh mấy ông già da nhăn nheo đó đùa rỡn dưới
biển với mấy cô má hồng còn lấm tấm mấy cái mụn dậy thì, trông chẳng khác gì
cảnh ông nội, ông ngoại ra bơi với cháu. Thật đáng buồn!
Tôi nhìn sang con gái tôi đang nằm phơi nắng trong
bộ áo tắm, cuốn tiểu thuyết The Memoirs of a Geisha úp trên mặt, tôi thấy cô
thật là may mắn biết bao! Cô được đi học, cô có việc làm tử tế, cô kiếm sống được
bằng kiến thức và lòng tự trọng. Nếu cô chẳng may sinh ra và lớn lên trong một
cái làng, cái tỉnh nghèo nàn nào đó Việt Nam, không được đi học đến nơi, đến
chốn, thì có gì bảo đảm cô sẽ không là một trong những cô gái đang bơi lội dưới
kia? Cái nghèo khó luôn luôn kéo theo cái bất hạnh.
Giữa mênh mông sóng biển, nhìn những cô gái trẻ
đang bơi trong nước, bỗng những cành đào Nhật Tân hiện ra trong trí tôi. Những
cành đào hiếm hoi còn sót lại năm nay ở làng này vì người ta đang cào xới đất
để xây những cao ốc trên đó. Rồi những cô gái làng này không còn hoa đào để
bán, không còn đất để trồng cúc, trồng lay-ơn, trồng hoa hồng nữa. Họ sẽ đi đâu
và sẽ làm gì để sống? Họ sẽ lại ra những bãi biển với những người đàn ông già
như ông nội hay sao? Khu đất cổ truyền trồng hoa, nổi tiếng về hoa đào Nhật Tân
còn không cứu được, còn bị san bằng để xây cao ốc thì những cô gái Nhật Tân có
ai cần để ý tới, họ sẽ trôi ra biển hay đi về đâu!
Người thanh niên hai mươi tám tuổi hướng dẫn tour
cho chúng tôi, than:
- Tụi con bây giờ, những người lợi tức thấp,
khó kiếm vợ và kiếm bồ lắm. Họ cặp với người nước ngoài hết rồi cô ơi!
Tôi hỏi:
- Nhưng các cô ở miền quê như Phú Quốc này, thì
làm sao gặp được những người du khác ở xa đến, trong khi họ lại không biết
ngoại ngữ?
- Dễ lắm cô ạ. Cứ cô nào đi trước kiếm được
một người thì lại chỉ dẫn giới thiệu cho cô sau. Mấy ông du khách đó lại giới
thiệu cho nhau. Cứ cái đà này thì con gái Phú Quốc chẳng còn ai cho tụi thanh
niên chúng con ở đây nữa. Mấy tỉnh miền Tây bây giờ cũng thế hết, con gái họ bỏ
đi Sàigòn kiếm sống bằng cách làm gái bao cả
Anh ta nói như một tiếng than. Tôi ngồi im
nghe không biết nên an ủi thế nào.
Ở Sàigòn thì gặp mấy người chạy taxi kể lể:
- Cô ơi! Mấy thằng cha Đại Hàn bây giờ nó khôn
lắm. Nó sang đây giành giật của Việt Nam vừa đàn bà vừa tiền. Nó không cần biết
tiếngViệt, nó bỏ tiền ra thuê một cái mặt bằng, thuê bao luôn một cô ở đây
đứng trông tiệm (bán đồ cho khách du lịch) làm người ở và làm vợ tạm thời cho
nó. Cô ta được trả vài ba trăm đô một tháng là mừng lắm rồi. Làm ăn một thời
gian vài ba năm thôi, hết hạn, nó trả tiệm lại, trả cô nhà quê ra đường, ôm
tiền về nước. Mấy thằng Đài Loan cũng vậy. Còn mấy ông già Việt kiều nữa cô
ơi! Đến tuổi hưu trí rồi, về Việt Nam kiếm một cô bồ chỉ bằng tuổi con gái, con
dâu mình. Giữ đấy, như một thứ vợ nhỏ, cho một tháng hai ba trăm đô la. Mỗi năm
đi, về hai, ba lần hưởng thụ. Cơm bưng, tình bưng đến tận miệng. Trong khi ổng
không có ở đây thì các cô muốn làm gì thì làm, khi ổng qua thì các cô phải hoàn
toàn phụng sự ổng là được rồi.
Anh nói thêm:
- Chuyện này đều đều từ nhiều năm nay rồi. Các
cô rủ nhau, dắt mối cho nhau, Đại Hàn giới thiệu cho Đại Hàn, Đài Loan giới
thiệu cho Đài Loan,Việt kiều giới thiệu cho Việt kiều. Mỗi người một tiêu
chuẩn, một dịch vụ khác nhau. Ai cũng vui vẻ hài lòng cả.
Tôi nghe kể mà lòng buồn ruời ruợi. Có lẽ
những phụ nữ chọn cuộc sống này họ thấy còn hơn là phải sang Đài Loan làm nô lệ
cho cả một gia đình hay bị bán vào những nơi họ không hề lựa chọn. Tôi nhớ đến
một bản tin đọc được ở báo trong nước về một người đàn bà Việt Nam muốn sang
Đài Loan kiếm tiền giúp gia đình. Hai vợ chồng vay mượn một số tiền mười ngàn
Mỹ kim để được sang bên đó làm công nhân hay ở mướn gì đó qua trung gian môi
giới. Không biết vì một lý do đau thương, tủi nhục nào, người vợ đã không cho
chồng biết, âm thầm chịu đựng rồi đi đến chỗ tự tử chết. Người chồng vừa đau
đớn vừa bị món nợ mười ngàn Mỹ kim hối thúc, tự tử chết theo vợ, để lại mấy đứa
con thơ.
Thử hỏi có bản tin nào đau thương hơn bản tin này!
Trong khi đó thì ở một mặt
khác của xã hội, những cô gái của cả Sài Gòn, Hà Nội bây giờ sống rất là thời
thượng. Họ đi làm những công việc văn phòng chỉ để lấy danh nghĩa đi làm, họ có
một nguồn lợi tức ở đâu đó cung cấp chuyện tiêu pha ăn, mặc hàng ngày cho họ mình
không biết. Họ rất giỏi về lãnh vực tìm bạn Việt kiều trên mạng. Mỗi tối,
ngồi hàng giờ để chat với một ai đó, rồi đưa đến hò hẹn. Một cậu Việt kiều ở Mỹ
hay Úc, trước khi về Việt Nam, có thể tìm trên mạng cho mình một cô bồ ra tận
phi trường đón. Cô ta nói tiếng Anh tương đối, hướng dẫn các dịch vụ ăn chơi,
cô chỉ bảo tận tình và cho cậu cái cảm tưởng là cô không đến vì tiền của cậu
(cô có tiền rồi!) cô sẵn sàng mời cậu về nơi cô ở thay vì ở khách sạn (tình cho
không, biếu không), cô hiền lành, chiều chuộng hết mình, rồi cô cho cậu biết cha
mẹ cô là những người có địa vị trong xã hội, cô mời cậu ra Bắc hay lên Đà Lạt
hoặc Nha Trang gặp họ. Trong khi chuyện trò, cô thường nói là Em không thích sống
ở Mỹ, cô cho cậu cái cảm tưởng cậu là người may mắn, gặp được một cô không
giống những cô mà trước đây cậu thường nghe tả. Có thể cậu Việt kiều này sẽ gặp
ông bố của cô bồ là một kỹ sư nhà nước hay một ông bác sĩ thật (Một bác sĩ xuất
thân là y tá và được thăng bác sĩ nhờ tuổi đảng thâm niên). Và cô gái không
thích sống ở Mỹ đâu chỉ có nghĩa là cậu lấy cô rồi cậu sẽ ở lại Việt Nam và cô
có cơ hội vào quốc tịch Mỹ. Có trời mà biết những gì sẽ xảy ra sau tấm màn sân
khấu này.
Những vở kịch này hiện nay đang diễn ra thường
xuyên ở Việt Nam. Những người thân quen ở Việt Nam chỉ biết dặn dò:
- Cháu coi chừng đấy, gái Việt bây giờ có cả ngàn
chiêu, không biết đường nào mà đỡ đâu.
Tôi được nghe kể, còn một phương cách kiếm chồng
nước ngoài cao hơn thế nữa là các cô con ông lớn thứ thiệt, có đăng ký tên
trong những cái bar sang trọng. Khi chủ nhân thấy có một đám khách Việt kiều
trẻ nào, thuộc loại mặt mũi sáng sủa, lịch sự, học thức, ăn xài sang vào bar là
lập tức họ thu dọn chiến trường, dẹp hết những cô tầm thường đang làm việc ở
đó, gọi những cô gái con các ông lớn trong danh sách đến. Các cô ăn nói lịch
sự, có học đến làm quen chuyện trò với khách, và sau một buổi tối, nhiều cậu đã
được mời về nhà, giới thiệu với gia đình. Nhà sang trọng, có xe hơi và tài xế riêng,
cha mẹ niềm nở đón tiếp. Hỏi ra thì được biết cha mẹ các cô toàn là những nhân
viên cao cấp của chính quyền cả. Những cậu được mời này, chắc chắn sẽ quay lại
và kết thân cùng cô gái. Mọi việc kế tiếp thì chỉ có Trời mới biết là sẽ được
xếp đặt như thế nào.
Ôi! Những chuyện quê nhà thì nói sao cho hết. Chuyện
vui thì qua mau, chuyện buồn thì ở lại. Mỗi lần về là một lần xót xa. Cứ nhủ
lòng thôi không về nữa. Thế mà một hai năm sau, nguôi ngoai một chút lại thu
xếp quay về.
Hà Nội bỗng dung nhan đổi khác nhờ những cơn Gió
Mùa Đông Bắc. Thanh niên, thiếu nữ giấu trong chiếc áo len, áo dạ, những mơ ước
lãng mạn của mình. Họ khoác tay nhau ngồi xuống những quán ăn đơn sơ ngay ở vỉa
hè. Chuyền tay nhau những chén lục tào xá, bánh trôi, bánh chay. Họ ăn bằng mơ
mộng của tuổi trẻ, ăn bằng hoang mang của những ngày cuối năm, ăn bằng nôn nao
của mùa xuân đang tới. Gió lãng mạn, gió phiêu du, gió làm gầy những con phố,
làm trái tim đập dịu dàng và làm những bài thơ bỗng nghiêng xuống, nằm sát vào
những chiếc lá cuối đông.
Bây giờ ngồi đây nhớ Gió Mùa Đông Bắc, muốn khóc.
Về Sài Gòn để được chen lách giữa những đám xe
cộ, nhất là xe gắn máy. Để nhìn khói bụi mù đường, nghe những tiếng gọi nhau ơi
ới, những tiếng rao hàng, hòa vào giữa tiếng xe nổ, tiếng còi xe inh ỏi. Để
trong lúc chen lấn giữa dòng người, dòng xe, thỉnh thoảng lại nhìn cái bảng tên
đường lạ hoắc, cố đoán ra trước đây là đường gì? Rồi chợt nghe đau nhói trong
ngực về một kỷ niệm thân yêu cũ ở con đường mình đang đi. Nước mắt ứa ra, hình
dung lại một buổi chiều êm ả đã xa lắm rồi. Tình đã quan san từ đáy mắt (Đinh
Hùng)
Về để lại đi xuồng máy nguyên ngày trên Tiền Giang,
ghé vào những rạch, chỗ người dân làm bánh tráng, làm kẹo dừa, đan võng, đan
giỏ, để được ngắm những người dân miềm Nam giản dị, chất phác, nhìn những vất
vả của người mẹ, người cha:
Quê hương là cây cầu khỉ
khẳng khiu như cánh tay cha
quê hương gánh hàng nặng trĩu
mẹ về tất tả chợ xa
quê hương áo bà ba trắng
khăn lau lệ mẹ vắt vai
quê hương mồ hôi cha đổ
cho con miếng ngọt miếng bùi. (tmt)
Về để đi ra Bắc, lên tận Yên Bái, đến ngôi nhà
sát bên sông Hồng của người anh họ, được soi mặt trong thau nước múc lên ở lòng
sông, có phù sa lắng hồng đáy chậu. Được ngồi trong một cái bếp còn đun củi,
bám đầy bồ hóng, được dùng gáo múc nước, được ăn măng trúc, măng mai. Nhớ về
câu thơ cũ trong bài Trấn Thủ Lưu Đồn:
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc, măng mai
Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng
Về để được chen chân đi trong phố cổ Hà Nội nhỏ
hẹp, có rác và cống trên từng bước đi, được đi trong nắng, trong gió Hà Nội nhớ
lại thủa ấu thơ, ngơ ngác đi qua nhà thờ xưa như đứa bé tan lễ ra, lạc mẹ:
Lâu lắm em mới về Hà Nội
đi trên viên gạch tuổi thơ ngây
gió mùa đông bắc làm em khóc
Hà Nội, anh ơi phố rất gầy! (tmt)
Mấy ngày hôm nay Hà Nội lạnh, Hà Nội vào Tết, Hà
Nội chạy ùa ra phố mua áo ấm, gió mùa đông bắc thổi vạt áo bay tung, hai mẹ con
đi sát vào nhau, chen chân trong khu chợ đêm trong phố cổ. Cảm tưởng hương vị
của một ngày cuối đông đang tan trong cổ mình như những câu thơ:
Hà Nội rủ nhau mua áo ấm
gió mùa đông bắc thổi qua len
khăn san quàng vội vào cổ gió
trên vai một chiếc lá rơi nghiêng (tmt)
Người, xe, hàng quà hai bên vệ đường cùng đan vào
nhau, gần như giẫm lên chân nhau. Hàng Đào với những cửa tiệm sang trọng bán
quần áo tơ lụa cho du khách, Hàng Bạc lấp lánh những vòng vàng những xuyến bạc
và kiềng trạm, Hàng Mã một mầu đỏ đến căng từng mạch máu của đèn lồng, giây
pháo giả, vàng mã. Người ta đổ xô đi mua về để đốt cho ông Táo lên trời. Cứ thế
đi theo dòng người, hai mẹ con bập bềnh trôi.
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
(Bùi Giáng)
Đúng là mùa xuân đang về trước mặt cho con gái
và sau lưng là cả một giấc miên trường của đời sống mà người mẹ đã đi qua
(1) Thời giá tháng 12/2005