Sunday, June 8, 2014

MẤT VÀO TRONG MÂY


Chỉ tại thử sơn trung
Vân thâm bất tri xứ
 Giả Đảo

Mưa theo nhau đến cả hai tuần liền, có hôm buổi trưa hé lên một chút nắng ở phía bên kia hồ, rồi lại chìm ngay vào những hạt mưa. Một chiếc cầu nổi trên mặt nước bắc ngang qua hồ Washington, nối phía Đông của Issaquah với phía Tây của Seattle. Nhà của tôi ở phía Đông, khi tôi lái xe qua cầu để sang Seattle thì ngọn núi Rainier ở bên tay trái. Mỗi lần qua cầu mà không nhìn thấy núi thì buồn buồn trong lòng. Nỗi buồn rất nhẹ nhưng cũng đủ làm mình bâng khuâng nguyên ngày. Hôm nào nhìn thấy núi thì hân hoan như nhìn thấy người tình, như nhìn thấy người bạn thân mà lâu quá mình không gặp, lúc xe qua gần hết cầu thế nào cũng quay đầu lại nhìn tiếc ngọn núi một lần chót, trước khi xe vào trong hầm. Đỉnh núi bao giờ cũng trắng toát, khi thì tuyết đổ xuống đỉnh tung toé như đường cát trắng, khi thì mây bối rối quấn chung quanh. Ngọn núi có hình dáng của ngọn Phú Sĩ Sơn. 
 Vào những ngày trời quang, mây ít, sương mỏng, giữa khoảng trời xanh bát ngát mênh mông, một ngọn núi đứng sừng sững lẫm liệt, trắng toát soi bóng xuống một dòng nước trong veo, dưới chân núi là nhiều nóc nhà ẩn hiện len lỏi trong những vạt rừng thông. Cuối năm dương lịch ngày mưa, ngày gió liên tiếp và lúc nào thành phố cũng đầy sương. Sáng nay khi mở cửa nhìn ra ngoài, sương đổ đặc quánh như sữa trên những hàng thông, trên những dẫy nhà ở trên đồi, sương dầy kín như bông goòng giăng từ cụm hoa này sang cành lá kia ở trong vườn. Khi lái xe sang phía tây Seattle, qua cầu, tôi không nhìn thấy thành cầu, không nhìn thấy sóng nước, không nhìn thấy bờ, không nhìn thấy xe đi đằng trước, không nhìn thấy nhà dưới chân núi và không nhìn thấy núi. Tất cả biến mất vào trong sương, trong mưa. Nhớ ơi là nhớ! Bỗng dưng một bài thơ cổ hiện về trong đầu :

Tùng hạ vấn đồng tử
Ngôn sư thái dược khứ
Chỉ tại thử sơn trung
Vân thâm bất tri xứ (Giả Đảo)

Tạm dịch:
Hỏi chú nhỏ dưới gốc tùng
Đi đâu vắng mặt mà không thấy Thầy?
Loanh quanh hái thuốc đâu đây
Chắc là bóng mất vào mây mất rồi!

Mây dầy thăm thẳm thế này làm sao tìm thấy người đi hái thuốc trong núi? Sương đặc thế này biết núi ở phương nao? Mây hay sương thì cùng một mầu trắng, chỉ khác nhau ở chỗ mây có đường uốn lượn, còn sương như khói trắng bốc lên. Nhưng cả hai cùng bưng lấy mắt người. 
 Cuối năm dương lịch, tôi đọc trang báo Newsweek nói về truyện của John Walker, người thanh niên Mỹ bắt làm tù binh ở tại Afghanistan. Nhìn hình người thanh niên trên bìa báo, mặt mũi không rõ nét vì râu tóc và tro than lem luốc, tôi bỗng liên tưởng đến những đám mây che mất núi, che mất những lối đi và nhớ đến cậu con trai lớn của tôi. Không hiểu tại sao những đám mây lại dính dáng đến câu truyện của hai thanh niên Mỹ này nhiều như thế! 
 Khi Jean Paul học xong trung học thì cậu chưa đủ mười tám tuổi. Cậu không chịu vào Đại Học ở tiểu bang nhà, mặc dù đã được nhận. Cậu xếp va li sang tận Tucson thuộc tiểu bang Arizona. Cậu đi theo một người thầy Trung Hoa để học võ Vịnh Xuân Quyền. Mẹ cậu khóc hết nước mắt, bố phải theo con đến Tucson thuê nhà, mua cho con một cái xe cũ. Trong năm năm liền, cậu vừa đi làm bán thời gian, vừa học võ, vừa học chữ. Bố mẹ phải thường xuyên liên lạc, phải trợ cấp hàng tháng, phải tìm dịp đi thăm cậu. Trong những dịp nghỉ hè, nghỉ lễ về thăm nhà, cậu chỉ nói đến truyện võ thuật. Theo cậu thì không có võ nào hay hơn được võ Vịnh Xuân Quyền. Một môn võ không dùng võ khí, chỉ dùng hai bàn tay mà không ai xâm phạm được vào mình. Theo cậu thì trên đời này không có một võ sư nào giỏi hơn và có thể đánh hạ được sư phụ của cậu. Giấc mơ của cậu là sẽ mở một ngôi trường dậy võ. Tóc cậu cắt ngắn, thân thể cậu rắn chắc, mặt mũi cậu sáng sủa. Cậu sốt sắng học võ nhiều hơn học chữ. Mẹ cậu đến thăm cậu thì thấy ở trong phòng cậu có những tấm hình của các vị Phật, mặc dù cậu sinh ra trong một gia đình Thiên Chúa Giáo, và theo học trường Công Giáo từ Tiểu Học cho hết Trung Học. Mẹ cậu bảo:

  - Con thờ Phật cũng không sao. Chúa với Phật cũng chỉ là một, có tên khác nhau thôi. Nhưng đã theo đạo nào thì nên giữ đạo đó, đừng có thay đổi.

Trong thâm tâm, người mẹ biết là con mình đang đi tìm bản ngã. Cậu hoang mang không rõ chính mình, cậu muốn thử sống khác với cách sống mà cha mẹ cậu đã cho cậu từ trước đến nay. Người mẹ hy vọng một ngày nào đó cậu sẽ tìm được cậu. Lúc đó chẳng cần gọi, cậu cũng tìm về cái căn bản nguyên thủy cậu đuợc nuôi dậy. Cậu đang đi trong một màn sương, cậu đang bước giữa một đám mây. Mây và sương bịt kín mắt cậu. Bổn phận của cha mẹ là giữ liên lạc với con, là kiên nhẫn đợi cho mây bay đi. Vân thâm bất tri xứ. Không nhìn ra được lối / Chỉ tại quá nhiều mây. Khi đám mây đó tan đi, mọi sự vật sẽ đâu vào đấy, lối đi và người sẽ cùng hiện ra.

 Bây giờ sau năm năm, không thấy Jean Paul nói nhiều đến sư phụ, đến Vịnh Xuân Quyền nữa. Cậu đã đi làm, công việc cậu làm là Music Event Coordinator không dính dáng gì đến cái môn cậu học là Computer Science. Cậu quên giấc mơ mở trường dậy võ. Cậu nghĩ đến việc mua nhà, và thỉnh thoảng gửi tiền cho hai em như những người bình thường khác. Mẹ cậu thì mong cho một ngày nào đó, cậu trở lại đi xem lễ ở ngôi giáo đường cũ. 
 John Walker cũng là một thanh niên lạc mất chính mình, có thể anh ta thiếu một chút may mắn trên một đoạn nào đó của cuộc đời, anh chưa tìm được lại mình thì anh đã bị cuốn trôi vào một cơn lốc kinh hoàng. Anh không lạc trong mây hay trong sương mà anh lạc giữa máu và lửa. Bước vào tuổi teen, mười sáu tuổi, John chống lại đời sống xã hội khác với những thanh niên cùng tuổi. Anh không muốn bị điều khiển một cách chính xác, ăn ra sao, mặc ra sao, nghĩ thế nào, cầu nguyện thế nào. Anh đòi hỏi một giá trị tuyệt đối và anh sẵn sàng đi một con đường thật dài để tìm chân lý của mình. 
 Anh rời gia đình đến sống ở một nước khác (một ngôi làng nhỏ, tỉnh Bannu ở biên giới Tây Bắc thuộc Pakistan) và anh cải đạo. Xã hội nước Mỹ, một xã hội tôn trọng tự do cá nhân mà anh sống và lớn lên, đã góp một phần không nhỏ vào sự thay đổi to tát này. Từ một tín đồ Thiên Chúa Giáo anh trở thành một jihadish. Anh chấp nhận ghi nhớ tất cả các chữ Quaran, học thuộc lòng 6.666 câu trong quyển Kinh Thánh cổ mà một người muốn trở thành tín đồ đạo Muslim cần phải học. Tên của anh được đổi là Suleyman al-Faris. Anh đi tìm một căn cước khác với căn cước của cha mẹ cho anh. Cha mẹ anh quan tâm đến anh, tìm cách liên lạc với anh, thường xuyên gửi tiền cho anh.Và trên hết họ đã một phần nào yểm trợ anh trong sự thay đổi này. 
 Nhưng chẳng bao lâu anh lại chán với cảnh sống tụ họp đông đảo. Tháng Tư năm 2001, anh than phiền khí hậu nóng bức, muốn dọn vào ở trong núi. Từ đó anh mất hẳn dấu tích. (Chỉ tại quá nhiều mây). Anh bị bắt như một Thánh chiến quân Taliban, khi đang trốn trong một căn hầm (đã nhịn đói bẩy ngày) với khẩu AK-47 trong tay. Câu đầu tiên anh nói là: Tôi là người Mỹ. Khi ở giữa sống và chết, anh mới thật sự bật ra cái căn cước gốc của mình. Cha mẹ anh nói anh chỉ là một nạn nhân đã đặt mình vào sai chỗ và sai thời điểm. Số phận anh chưa được định đoạt rõ rệt. Anh có bị kết án là kẻ phản quốc hay không? 
 Tôi nghĩ đến con tôi, nghĩ đến những giấc mơ không rõ rệt của tuổi trẻ. Đến những con đường họ đi qua sai chỗ và sai thời điểm để tìm ra bản ngã mình. Tôi thương anh và thương cha mẹ anh. Từ tháng Năm 2001, cha mẹ anh mất liên lạc với anh. Có phải tại Vân thâm bất tri xứ - Mây che kín lối về? Không, cha của John không nghĩ là mây phủ mất hình hài con trai mình. Ông đã nhìn trăng mà kêu lên: Tôi nhìn lên trăng và tự hỏi rằng, John đã ở đâu đó và cũng đang nhìn mặt trăng này (I would look at the moon and just wonder if John was somewhere seeing it, too). 
 Tôi thương John, vì nghĩ chuyện đó có thể xẩy ra cho bất cứ một thanh niên nào ở tuổi sốt vỡ da (teenagers) và tôi thương cha mẹ anh như thương tất cả những người làm cha mẹ

Newsweek, số ra ngày 17 /12/2001