Gửi các anh chị họ Trần ở Yên Bái
Tôi bay một chặng bay mười sáu tiếng trên
không gian từ Hoa Kỳ về Việt Nam, bay qua bao nhiêu đám mây, qua bao cánh rừng,
rặng núi, sông sâu, biển rộng, và những nóc nhà. Tôi đi một chặng xe ca bốn
tiếng trên mặt đất từ Hà Nội về Yên Bái, qua thành phố, qua xóm, qua làng,
những thửa ruộng, vườn rau, bãi mía, nương khoai. Cuối cùng, tôi về tới nơi tôi
mong ngóng, nơi có bao nhiêu người thân tộc mà gần nửa thế kỷ tôi không liên
lạc được.
Ngôi nhà của người anh họ tôi
nằm song song với sông Hồng. Ai đó đã bưng đến trước mặt tôi một thau nước cho
tôi tẩy sạch bụi đường. Tôi soi mặt mình vào chậu thau đựng nước vừa kéo lên ở
giếng, nước giếng có mầu hồng, để im một lúc, một lớp phù sa mầu hồng đậm lắng xuống đáy chậu, chiếc
khăn mặt trắng tôi nhúng xuống cũng nhuộm mầu hồng nhàn nhạt. Tôi nhìn đăm đăm
vào chậu nước, tất cả tĩnh lặng, êm ả, mềm mại như một bài thơ thiền viết trên
lụa. Tôi đẫm mặt mình vào vốc nước hồng, nước thấm vào da mát rượi, tôi úp mặt
rất lâu vào chiếc khăn sũng nước, nước mắt tôi ứa ra, tôi chắc nước mắt cũng
pha hồng.
Những con gà đi chung quanh
sân nhặt sâu trong lá, cỏ, thỉnh thoảng cất cổ lên, nghếch mắt nhìn khách lạ,
tiếng quãy đuôi của một con cá trong cái ao nhỏ trước nhà làm con chuồn chuồn
đang đậu trên một cọng lau cất cánh bay đi. Cái chuồng chim treo ở một nhánh
cây táo có hai con chim mầu nâu nhạt, đang nhẩy lên nhẩy xuống chiếc then ngang
tạo những tiếng động nho nhỏ, đủ gọi người đi qua chú ý. Sau lưng tôi, năm ba
người đàn bà ngồi nhặt rau bí, rau vừa hái ngoài vườn vào, đổ tung ra một
khoảng sân, trước cửa bếp. Họ xúm lại, tước sơ, vò lá. Tôi biết chốc nữa trên
mâm cơm sẽ có đĩa rau này và những miếng rau sẽ cho tôi cái ngọt ngào như thế
nào! Tôi như ngửi trước được mùi tỏi hăng hăng sẽ đập dập vào rau thơm ngát.
Tiếng bát đũa khua vui trong chái bếp, khói bay ra mang theo mùi hương lạ, mùi
khói của lá khô, cành nhỏ đã bao lâu tôi không được ngửi. Khói bếp như một giải
lụa mầu xám bay ra, bay thẳng vào không gian trong vắt của một ngày đầy nắng.
Chàng như mây mùa thu / Thiếp như
khói trong lò / Cao thấp tuy có khác / Một tỏa cùng tuyệt vời.
Có tiếng ủn ỉn của con heo
trong chuồng sát ngay cạnh bếp, đòi ăn, mà không ai để ý. Một người con gái vừa
ở ngoài đồng về, khuôn mặt như một vừng trăng, một vừng trăng mỏi mệt, mà vẫn
đẹp. Trên vai cô gánh hai sọt rau muống, quần xắn cao sát đầu gối, hai bắp chân
nâu hồng khỏe mạnh có dính những mảng bùn khô. Cô đặt gánh xuống, chạy ngay vào
bếp lấy ra một con dao, cắt đầu già của những cọng rau muống, quẳng vào chuồng
lợn. Con lợn sung sướng kêu ủn lên một tiếng muốn bể cái mũi ngắn tủn, trước
khi vục chúi vào nắm rau.
Tôi rửa mặt xong, theo đám
con nít ra vườn rau, vườn cây trái của nhà. Vườn rau nằm sát sông. Bãi cát chạy
dài như một như giải lụa hồng xa ngút mắt. Nước sông đang xuống nên lớp phù sa
mênh mông, thoai thoải, ta có thể đi bộ ra gần mé nước, rồi bước hẳn vào trong
nước như đang bước trên sông Hồng! Tôi tháo giầy, giẫm hai bàn chân trần trên
lớp phù sa mầu hồng, mềm và mát như thạch, cát pha nước nên loãng như mây, lúc
có lúc không, những ngón chân nhỏ lún sâu vào phù sa cũng được nhuộm hồng.
Những bàn tay của ai đó kéo tôi bước dọc theo sông, hết một quãng dài lại quay
lưng đi lại, nên đi hoài vẫn không thấy hết một khúc sông. Bên kia bờ xa tắp là
những khóm cây gì tôi không biết, chỉ thấy một mầu xanh ngằn ngặt, mầu xanh
loang xa, loang rộng hắt xuống mầu hồng của phù xa, chỗ này một mảng, chỗ kia
một mảng. Tôi ngước mắt nhìn lên trời, mới biết là mình đang đứng giữa hai đám
mây, đám trắng nõn trên đầu và đám hồng dưới chân. Gió thổi nhẹ, hồn tôi bay.
Ôi cha! Ôi mẹ! Ôi sông! Ôi quê nhà yêu dấu! Những giọt nước mắt ứa ra, chắc
nước mắt cũng pha hồng.
Những cây đu đủ không cao lắm
mà mang bao nhiêu là quả trên thân, một chú bé lên mười, nhanh nhẹn trèo lên
một cái cây bên cạnh cây đu dủ, với tay sang, hái xuống một quả chín nhất, mang
đến cho tôi, mời tôi bằng mắt. Đôi mắt nâu trong veo, nửa thân thiện, nửa ngập
ngừng. Những khóm tre, khóm giang, khóm mai có cành cao vút, như muốn với lấy
cụm mây trắng trên trời, có cành cong xuống như đưa tay ra cầm lấy tay tôi,
dưới những gốc tre có những chồi măng nhú lên như một đàn em bé sơ sinh, nằm
ngang, nằm dọc. Tôi chạnh nhớ đến câu thơ: Miệng ăn măng trúc măng mai. Những
luống bắp cải đang lớn, từng cái bắp tròn trĩnh như đầu những đứa trẻ lên ba,
đội những chiếc mũ mầu xanh. Rau lang, rau bí xanh um một vùng, thỉnh thoảng
đám rau bí điểm những bông hoa vàng cánh mỏng, trông như đàn bướm mầu vàng từ
đâu bay tới, đẹp quá! Mùa này đang có ngô non, những thân ngô cao hơn đầu tôi,
đám trẻ dắt tôi đi vào trong đó. Lá ngô sắc như dao, xanh mầu bích ngọc, bắp
ngô chưa lớn lắm, áo ngô còn mầu mỡ gà vàng nhạt, những hột non như hàm răng
con nít vừa mới mọc. Gió thổi rất nhẹ, tiếng trẻ cười khúc khích, tiếng lá ngô
hát, tiếng hát xào xạc chạm vào nhau. Hồn tôi hát, tiếng hát xào xạc chạm vào
một cái gì không rõ rệt. Lá ngô, rau bí, khóm tre, hay sông Hồng? Hồn tôi chao
đi vì tiếng hát, thân tôi chao đi như còn đang đứng ở giữa dòng sông.
Đám trẻ vây quanh tôi, cả trẻ
con hàng xóm cũng nhập bọn. Chúng líu lo gọi tên và cắt nghĩa từng loại cây,
loại rau cho người khách lạ. Về đây tôi được gọi là cô, là bà trẻ, tôi được bao
phủ bằng tình thương yêu mộc mạc của gia đình, của làng xóm. Tôi cứ mụ người đi
vì cái lưới vô hình êm ái đó chụp xuống tôi. Có tiếng gọi vào nhà. Hai ba mâm
thức ăn đã bầy ra, trên bàn thờ có hình ông bà nội, cha, mẹ tôi, bác và chú
tôi, những người đã qua đời. Các anh chị tôi, và con cháu quây quần để mừng đón
tôi.
Những người đàn ông và người đàn bà mà tôi
phải gọi là anh, chị mặc những chiếc áo mầu đậm, làm họ trông càng già hơn
tuổi. Họ đứng trang nghiêm nhìn tôi rưng rưng lệ. Hai anh lớn nhất, trông có
nhiều nét giống bố tôi ngày trước, cũng cao cao, gầy gầy, khuôn mặt xương
xương, làm tôi không ngăn được nước mắt. Ngày hôm qua ở Hà Nội, nếu tôi gặp họ,
thì cũng như tôi gặp những người qua phố mà thôi, chắc tôi chẳng có một mảy may
gì xúc động. Nhưng hôm nay họ đứng trước mặt tôi, nói cho tôi nghe những cái
tên mà tôi nghe như tiếng chuông đồng vọng từ quá khứ. Chúng nhắc tôi nhớ đến
khuôn mặt thân yêu của cha mẹ đã qua đời, những khuôn mặt của ông bà nội, của
chú, của bác trong những tấm hình trắng đen trước đây vẫn thường bầy trên bàn thờ
gia đình. Những tấm hình mà hồi bé, anh chị em chúng tôi mỗi ngày giỗ tết phải
phụ cha mẹ lau chùi bụi bậm, xếp cho ngay ngắn lại cùng với hương hoa. Mỗi khuôn
mặt trong hình sao mà thân quen thế, càng lớn càng thấy gần gũi với mình.
Bây giờ bỗng nhiên những
người hao hao giống trong hình, đứng trước mặt mình rưng rưng nước mắt, làm tôi
vừa bối rối vừa xúc động không biết người nào là thật, người nào là từ trong
những tấm hình trên bàn thờ ngày xưa bước xuống? Nước mắt tôi trào ra. Tôi
tưởng tượng ra nếu cha tôi còn
sống, cha tôi sẽ hạnh phúc biết chừng nào khi được gặp lại những người con của
anh ruột mình. Nhưng cha mẹ tôi bây giờ cũng chỉ còn ở lại trong những tấm ảnh,
thân xác họ ở tận bên kia lục địa. Khói hương đang bay lãng đãng che khuất cả
những khuôn mặt trong hình, cả những khuôn mặt người còn sống.
Người qua đời và người còn
sống bỗng như đang ở chung cùng một thế giới. Tôi nhớ cha, nhớ mẹ đến cồn cào
ruột gan! Nhưng sao không thấy đau đớn, chỉ thấy hình như mình được bọc trong
một cái túi bong bóng, căng phồng thương yêu, làm cho nghẹn ngào, khó thở.
Ăn uống xong, tôi theo các
cháu xuống bếp, hơi nóng trong bếp phà vào người như nhận được một vòng tay ôm
lấy tôi. Tôi ngồi xuống cái ghế thấp trước cửa lò, cái lò bé xây bằng đất, trên
có một ấm nước đang sôi, bếp đun bằng những cành cây nhỏ và lá khô, có hai con mèo con nằm khoanh vào nhau
ngay sát một góc, chúng đang sưởi ấm. Tôi quơ tay mình trên đám lửa hồng, tôi cho
thêm lá và củi khô vào lò, những ngón tay tôi chạm vào lá như chạm vào những
trang sách cũ, tôi không biết có nên mở sách ra hay là để nguyên như thế này.
Tôi không muốn khơi động, không muốn tìm hiểu. Tôi muốn tất cả như thế này,
không cần đổi khác, cứ đơn sơ như thế này và đẹp như thế này.
Tôi ngửng mặt nhìn những đám
khói đen bám trên nóc bếp, những trái gấc khô mầu đỏ thẫm lơ lửng buông xuống
trông giống một bức tranh thủy mặc của Tàu (tranh vẽ bằng nước và bồ hóng) như
một hạnh phúc có thật. Tôi uống nước trà xanh Thái Nguyên, như uống những chén
ngọc loãng vào bụng với những cô cháu đang ngồi rửa bát bên cạnh. Họ vừa làm
vừa hỏi han tôi, mắt tròn xoe ngơ ngác vì những câu trả lời lạ lẫm, rồi nghiêng
vào nhau cười khúc khích vì những câu hỏi ngây ngô của tôi. Mấy người con gái
đi chân đất, hai bàn tay nâu hồng, hàm răng trắng, con
mắt đen, mặt không son phấn. Họ đơn sơ và họ hạnh phúc, một thứ hạnh phúc ngay
trong tầm tay với. Tôi bỗng thèm được như họ.
Đám nhỏ lại kéo tôi ra trước
nhà, xem cái ao nuôi cá. Cái ao vừa được vét bùn thay nước, nên nước còn đùng
đục, có cây sung cả nửa thân ngả xuống phía ao. Chúng dắt tôi ra sát tận bờ,
chỉ cho tôi xem tăm cá sủi lên do những con cá được thả xuống đó, chờ sanh nở. Một
cô bé chạy ra gốc cây sung, bẻ một chùm quả, chia cho mỗi người mấy trái. Tôi
cho cả quả sung xanh vào miệng thưởng thức cái cảnh ăn sung sung chát, ăn đào đào
chua. Tỏm! Âm thanh của một quả sung chín vừa rơi xuống nước, tiếng kêu nhẹ mà
rung cả một buổi trưa đầy nắng. Có tiếng còi hụ từ đàng xa vọng tới báo hiệu
chiếc xe hỏa sắp đi ngang nhà. Đám trẻ kéo tay tôi ra xem. Một vài đứa đang
chơi ở trên đường sắt, đứa lớn dắt đứa bé vội vàng chạy, nhưng chúng chỉ chạy
khỏi đường sắt thôi và đứng sát đó để chờ nhìn chuyến tầu ầm ĩ lướt qua. Ngồi chơi
với mấy viên sỏi, với những bông hoa nhỏ hai bên đường sắt, nghe tiếng còi tầu
từ xa vọng tới, ngắm những toa tầu đi qua cửa mỗi ngày năm bẩy chuyến, đó cũng
là một sinh hoạt giải trí của chúng sau những giờ đi học về. Ở đây trẻ em không
có những trò chơi điện tử đắt tiền, không
ngay cả đến những con búp bế xinh đẹp với quần áo thời trang như các nơi giầu
có khác, cũng không có công viên cho trẻ em nên những chuyến tầu và con đường
sắt là nơi giải trí tuổi thơ, là niềm ước mơ của tuổi thiếu niên về một chân
trời mơ hồ phía trước. Chúng đứng nhìn
theo những toa tầu chở cái gì bí hiểm và quyến rũ trong đó đi ngang nhà năm này
qua năm khác và chúng lớn lên. Chúng ao ước một ngày nào đó được ngồi trên
những toa tầu bít bùng kia du hành về một thế giới thần tiên trong những giấc
mơ.
Còn tôi, tôi là người vừa
bước xuống từ những chuyến tầu như thế, tôi từ cái thế giới mà chúng mơ mộng
trở về, tôi thấy cái thế giới tôi đang đứng nơi này mới đúng là thế giới thần
tiên. Nơi những chuyện cổ tích vẫn còn tồn tại, những giấc mơ chưa được thỏa
lòng, những thiên đường mới được phác họa. Tôi bỗng thấy thương yêu tuổi thơ
Việt Nam vô cùng, tuổi thơ của những đứa trẻ trong ngôi làng hiền hòa và thanh
bình này.
Trước mặt tôi là con đường
sắt, hai then sắt song song không biết bắt đầu từ đâu và chấm dứt ở đâu. Có lẽ nó
bắt đầu từ một thiên đường này đến thiên đường khác. Thế thôi! Thiên đường của
tuổi trẻ Việt Nam. Sau lưng tôi là ngôi nhà song song với sông Hồng, sông Hồng một giải như mây hồng trôi
đi, trôi đi, trôi từ ký ức của tuổi thơ và tiếp tục trôi vào thiên đường tôi
đang có.
Ôi cha! Ôi mẹ! Ôi quê nhà yêu
dấu!
11/1998